Vô minh là gì mà có khả năng mãnh liệt như thế? nếu bạn hiểu rõ khái niệm về vô minh bạn sẽ thoát khỏi vô mình phiền não và nhận thức đúng đắn về bản ngã và thế giới xung quanh.
Vô minh trong đạo phật là gì?
Trong Phật pháp, thuật ngữ vô minh thường được nhắc đến. Chẳng hạn, Đức Phật đã giảng trong Kinh Phân Biệt Duyên Khởi Sơ Thắng Pháp Môn rằng: “Vô minh lan tỏa khắp tất cả phiền não ô nhiễm, các nghiệp ô nhiễm, và các sinh tử ô nhiễm, là nguyên nhân căn bản và chỗ nương tựa cho mọi duyên khởi.”
Điều này cho thấy, trong Phật giáo, vô minh được xem là nguyên nhân gốc rễ của mọi pháp ô nhiễm, bao gồm: tham, sân, si và các phiền não khác; các nghiệp do thân, khẩu, ý tạo ra do phiền não; cũng như sự tái sinh và khổ đau trong ba cõi luân hồi.
Vậy vô minh là gì? Chúng ta hãy lấy pháp nhân duyên làm ví dụ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong Kinh Duyên Khởi đã có lời khai thị như sau với các đệ tử của Ngài:
Phật dạy: “Thế nào gọi là ‘Duyên khởi sơ’? Nghĩa là do cái này có nên cái kia có, do cái này sinh nên cái kia sinh. Cụ thể: do vô minh làm duyên nên có hành; do hành làm duyên nên có thức; do thức làm duyên nên có danh sắc; do danh sắc làm duyên nên có sáu xứ; do sáu xứ làm duyên nên có xúc; do xúc làm duyên nên có thọ; do thọ làm duyên nên có ái; do ái làm duyên nên có thủ; do thủ làm duyên nên có hữu; do hữu làm duyên nên có sinh; do sinh làm duyên nên có lão tử, sầu bi, khổ ưu và não. Đây được gọi là sự tích tập của khối khổ lớn thuần túy. Như vậy, đây chính là ý nghĩa của ‘Duyên khởi sơ’.” (Kinh Duyên Khởi).
Lời dạy này giải thích rõ ràng về sự liên kết nhân duyên, từ vô minh dẫn đến toàn bộ vòng luân hồi và khổ đau.
Ý nghĩa của “Duyên khởi sơ” là gì? Đó là nói rằng: do cái này có nên cái kia mới có; vì pháp này sinh khởi nên pháp kia mới tiếp tục sinh khởi.
Cụ thể, vô minh làm duyên cho hành, hành làm duyên cho thức, thức lại làm duyên cho thọ, tưởng, hành và sắc uẩn. Thọ, tưởng, hành và sắc uẩn làm duyên cho sáu nhập xứ, sáu nhập xứ làm duyên cho xúc, xúc làm duyên cho thọ, thọ làm duyên cho ái, ái làm duyên cho thủ, thủ làm duyên cho hữu, hữu làm duyên cho sinh, sinh làm duyên cho lão tử.
Khi có lão tử thì sinh ra sầu, than, bi, khổ và ưu não. Đây chính là sự tích tập của khối khổ lớn thuần túy. Đó là ý nghĩa của “Duyên khởi sơ” mà Đức Phật giảng dạy, cũng chính là vòng 12 nhân duyên quen thuộc với tất cả chúng ta.
Đối với “vô minh” được đề cập trong 12 nhân duyên, Đức Phật cũng đã giải thích rõ hơn trong Kinh Duyên Khởi. Ngài dạy rằng:
“Thế nào là vô minh? Nghĩa là không biết về quá khứ, không biết về vị lai, không biết về cả quá khứ lẫn vị lai; không biết về trong, không biết về ngoài, không biết về cả trong lẫn ngoài; không biết về nghiệp, không biết về dị thục, không biết về sự liên hệ giữa nghiệp và dị thục; không biết về Phật, không biết về Pháp, không biết về Tăng; không biết về khổ, không biết về tập, không biết về diệt, không biết về đạo; không biết về nhân, không biết về quả, không biết về các pháp đã sinh khởi từ nhân; không biết về thiện, không biết về bất thiện; không biết về có tội, không biết về không tội; không biết về điều nên tu tập, không biết về điều không nên tu tập; không biết về sự thấp kém, không biết về sự vi diệu; không biết về điều đen, không biết về điều trắng; không biết về những sai biệt, không biết về các duyên đã sinh khởi, hoặc không thấy rõ như thật về sáu xứ xúc chạm. Như vậy, đối với những điều này, do không biết như thật, không thấy, không hiện quán, nên si mê, vô minh, tăm tối che lấp. Đó gọi là vô minh.” (Kinh Duyên Khởi)
Lời dạy này cho thấy “vô minh” chính là sự thiếu hiểu biết thấu đáo về mọi khía cạnh của pháp, từ nhân quả, nghiệp báo, cho đến con đường đưa đến giải thoát. Vô minh che lấp trí tuệ, khiến chúng sinh mãi chìm đắm trong luân hồi và khổ đau.
Mặc khác, Vô minh chính là không biết về đời quá khứ, không biết về đời vị lai, thậm chí không biết về cả quá khứ lẫn vị lai. Đó cũng là không biết về sáu căn bên trong hoặc sáu trần bên ngoài.
Không biết về việc tạo nghiệp, không biết về quả dị thục trong các đời trước và đời sau, thậm chí không biết mối liên hệ giữa nghiệp và quả dị thục. Không biết về Phật, Pháp, Tăng – ba ngôi Tam Bảo.
Không biết về hiện tượng khổ, lý do tập khởi của khổ, sự diệt khổ và con đường dẫn đến sự diệt khổ. Không biết về nhân của quả báo, không biết nội dung của quả báo, cũng không biết về các pháp đã sinh khởi từ nhân trong hiện tại.
Không biết về thiện pháp, bất thiện pháp; không biết điều có tội, điều không tội; không biết điều nên tu tập, điều không nên tu tập; không biết về cảnh giới thấp kém hoặc cảnh giới vi diệu.
Không biết về nghiệp đen, nghiệp trắng; không biết về những điều có sự biến đổi; không biết rõ như thật về các duyên đã sinh khởi hoặc về sáu xứ xúc chạm.
Như vậy, đối với tất cả những điều đã nói trên, vô minh chính là sự không biết như thật về các pháp, không phát khởi được chính kiến, không hiện quán các pháp. Đây là sự ngu si, vô minh, tăm tối bao trùm – chính là vô minh.
Ý của Đức Phật rất rõ ràng: vô minh chính là sự không biết, không hiểu rõ về các pháp chính là vô minh. Do thiếu hiểu biết về vọng tâm và chân tâm, dẫn đến không đủ khả năng nhận thức đúng đắn, không thể làm phát sinh trí tuệ sáng suốt để soi chiếu bản chất hư vọng của các pháp. Đây chính là vô minh trong pháp Thanh Văn, ngay cả đối với các bậc Thánh nhân đã chứng ngộ một phần chân lý.
Ví dụ:
- Không biết rõ về các đời quá khứ trước khi sinh ra, liệu đó là sự thật hay chỉ là những thiết lập do con người tạo ra.
- Không biết rõ sau khi chết đi, liệu có đời sau hay không, liệu sự tồn tại của đời sau là thật hay chỉ là những tưởng tượng, giả lập của con người.
- Không nhận thức rõ về tâm thức xuyên suốt ba đời – quá khứ, hiện tại, vị lai – vốn chưa từng gián đoạn.
- Không hiểu rõ bản chất và nội dung của các pháp nội tại như năm uẩn, cũng như không biết liệu các pháp bên ngoài có thể được bản thân thọ nhận hay không.
- Không biết liệu bản thân có một pháp nào đó có thể liên thông giữa nội và ngoại pháp.
- Không hiểu rõ về nghiệp thiện, nghiệp ác, và các quả báo do nghiệp hữu lậu hay vô lậu tạo ra.
- Không nhận thức được nội dung tu chứng của Phật, con đường giải thoát trong Phật pháp, hoặc con đường dẫn đến Phật quả.
- Không hiểu về cảnh giới trí tuệ của hàng Thanh Văn Tăng và Bồ Tát Tăng.
Tất cả những sự không biết này chính là vô minh theo nghĩa rộng.
Ngoài ra, trong Tạp A Hàm Kinh, quyển thứ mười, cũng ghi lại một đoạn đối thoại giữa Tôn giả Ma Ha Câu Si La và Tôn giả Xá Lợi Phất. Trong đó, Câu Si La hỏi Xá Lợi Phất:
- “Thế nào là vô minh? Người như thế nào có vô minh này?”
Tôn giả Xá Lợi Phất trả lời:
- “Vô minh là sự không biết. Không biết được gọi là vô minh.”
Câu Si La lại hỏi tiếp:
- “Không biết về điều gì?”
Lúc này, Tôn giả Xá Lợi Phất đã giải thích cặn kẽ cho ông ấy.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói:
“Nghĩa là không biết về sắc vô thường, không biết về sắc vô thường như thật; không biết về sắc hoại diệt pháp, không biết về sắc hoại diệt pháp như thật; không biết về sắc sinh diệt pháp, không biết về sắc sinh diệt pháp như thật.
Cảm thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy, không biết về cảm thọ vô thường, không biết về tưởng vô thường, không biết về hành vô thường, không biết về thức vô thường như thật; không biết về thức hoại diệt pháp, không biết về thức hoại diệt pháp như thật; không biết về thức sinh diệt pháp, không biết về thức sinh diệt pháp như thật.
Ma Ha Câu Si La! Đối với năm uẩn này, nếu không biết và không thấy như thật, không có sự phân biệt rõ ràng, không nhận thức được, đó gọi là vô minh. Người nào thành tựu được những điều này thì gọi là có vô minh.” (Tạp A Hàm Kinh, quyển 10)
Điều này có nghĩa là, đối với tính vô thường, vô ngã của từng uẩn trong năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), không thể nhận biết một cách chính xác, mà lại lầm tưởng rằng năm uẩn là thật có, là pháp tánh thường trụ bất hoại.
Đối với lý lẽ diệt trừ năm uẩn cũng không thể hiểu đúng, không biết rằng sau khi năm uẩn diệt tận vẫn còn bản tế của Niết-bàn bất diệt. Thậm chí, đối với những nội dung liên quan đến các pháp sinh diệt trong năm uẩn, bao gồm mười tám giới, sáu nhập, mười hai xứ, cũng không thể nhận thức một cách đúng đắn, dẫn đến việc hiểu lầm rằng một pháp nào đó trong năm uẩn không thuộc về năm uẩn, hoặc không phải là pháp sinh diệt.
Như vậy, nếu không thể nhận thức đúng đắn và đầy đủ về năm uẩn, không biết rằng toàn bộ nội dung của năm uẩn đều không có pháp nào mang tính chất “vô gián đẳng pháp,” và không thể hiểu được rằng “sau khi năm uẩn diệt tận vẫn còn pháp vô gián đẳng, chính là bản tế,” thì tâm sẽ chìm trong sự ngu si tăm tối. Đó chính là vô minh.
Trước hết, từng pháp trong năm uẩn đều là vô thường. Tính chất vô thường này không thể được xem là “chân ngã,” vì vậy mới nói rằng: “Năm uẩn vô thường, vô ngã, không phải là chân ngã.” Nếu không thể hiểu biết chính xác về từng uẩn trong năm uẩn, không thể nhận thức đúng về từng giới trong mười tám giới, không nhận biết đầy đủ về từng nhập trong sáu nhập, và thậm chí không thể thấu triệt từng xứ trong mười hai xứ, thì đó chính là vô minh.
Nếu không thể hiểu đúng rằng “các pháp trong uẩn, giới, nhập, xứ đều vô thường nên vô ngã,” thì cũng là vô minh. Thậm chí, khi không thể xác thực, không tin nhận lời dạy của Đức Phật rằng “khi năm uẩn diệt tận vẫn có bản tế Niết-bàn không diệt,” thì đó cũng là vô minh.
Như vậy, đối với chân lý rằng uẩn, xứ, giới là vô thường nên khổ, nếu không biết, không tin, không thấy rõ, thì chính là vô minh. Trong tâm thường sinh tham dục, không ngừng hy vọng vào năm dục (sắc, thanh, hương, vị, xúc) và năm sự tham ái (tài, sắc, danh, thực, thùy), đồng thời bị che lấp bởi năm triền cái: tham dục, sân hận, hôn trầm-thụy miên, trạo hối, nghi ngờ.
Nếu không hiểu được lý do uẩn, xứ, giới là khổ, không biết khổ trong uẩn, xứ, giới được tập khởi và huân tập như thế nào, không biết khổ trong uẩn, xứ, giới diệt tận ra sao, và không hiểu phương pháp để diệt tận khổ đau trong uẩn, xứ, giới, thì đó là vô minh. Chính vô minh này khiến chúng sinh tiếp tục luân chuyển trong sinh tử không dứt.
Đây là vô minh được nói đến trong các kinh Tứ A Hàm, thuộc về vô minh của đạo giải thoát Nhị thừa, là sự vô minh liên quan đến ngã kiến, ngã sở chấp và ngã chấp. Nguyên nhân chủ yếu là vì không biết rằng năm uẩn đều là vô thường, và không biết rằng sau khi năm uẩn diệt tận vẫn còn bản tế Niết-bàn tồn tại vĩnh viễn không diệt, không nhận ra rằng bản tế này chính là pháp vô gián.
Vì vậy, xét theo đạo giải thoát của Nhị thừa, sự tồn tại của vô minh bắt nguồn từ việc không nhận thức được rằng bản chất của năm uẩn và tự ngã đều là hư vọng. Chính vì không biết sự hư vọng của năm uẩn mà bị vô minh trong giáo pháp Thanh văn che lấp.
Ngoài ra, vì không biết rằng năm uẩn được sinh khởi từ “thức duyên danh sắc, danh sắc duyên thức,” tức là từ thức nhập thai (nhập thai thức) làm phát sinh danh sắc, và không biết rằng trước thức nhập thai này tuyệt đối không có bất kỳ pháp nào có thể làm nhân để sinh khởi nó, điều này được gọi là “quay lại đến thức, không thể vượt qua thức.” Do đó, lại bị vô minh trong pháp Duyên giác bao phủ.
Tuy nhiên, chúng sinh đối với năm uẩn mà vô minh, chủ yếu là không hiểu đúng về nội dung của uẩn thức, cũng như không biết được sự biến đổi và vô thường của uẩn thức. Trong đời này, uẩn thức dựa vào thân, khẩu và các hành (tức là tâm hành) của uẩn thức, yêu thích những hành vi này, chắc chắn sẽ tiếp tục nhập thai để hình thành các điều kiện cho uẩn thức hiện hành ở đời sau, khiến uẩn thức ở đời sau không ngừng tái hiện.
Tuy nhiên, nguyên nhân mà uẩn thức đời này vẫn chấp trước vào các hành của thân, khẩu và uẩn thức mà không chịu tiêu trừ đều xuất phát từ vô minh. Vô minh chính là không có khả năng suy xét hoặc không tin rằng “Bản thức, tức thức nhập thai, là thường trụ và có khả năng sinh khởi mọi pháp.” Đồng thời, cũng không biết năm uẩn là hư vọng mà lại chấp trước vào ý thức là “chính mình.” Không biết rằng tất cả những gì đạt được từ năm uẩn đều là pháp duyên sinh duyên diệt, là pháp vô thường, cuối cùng chắc chắn sẽ diệt mất.
Vì vô minh mà khiến bảy chuyển thức không chịu yên lặng, không muốn rời xa sáu trần; sau khi chết lại sợ rơi vào đoạn diệt, nên luôn muốn duy trì sự hiện hữu của sáu thức tâm: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý. Do đó, ý căn thúc đẩy thức nhập thai (như lai tạng) làm cho thân trung ấm được sinh khởi. Thân trung ấm chỉ có tuổi thọ bảy ngày, khi thân trung ấm hoại diệt, ý thức và ý căn sợ đoạn diệt, sợ không còn giác tri, nên lại đi đầu thai để có được thân người.
Chính vì vô minh, ý căn dẫn theo a-lại-da thức không ngừng đi thọ sinh. Có lúc do ác nghiệp mà sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, hoặc súc sinh; có lúc nhờ thiện nghiệp mà sinh lên cõi trời dục giới; có lúc nhờ phước định mà sinh lên cõi trời sắc giới; và có lúc sinh vào cõi vô sắc giới. Như vậy, cứ luân hồi không ngừng, không bao giờ thoát khỏi sự sinh tử phân đoạn; vì thế, chúng sinh đã luân hồi từ quá khứ đến hiện tại, và sẽ tiếp tục luân hồi trong vô lượng kiếp tương lai.
Chúng sinh trong tam giới lục đạo trải qua sự luân hồi trong năm cõi đều do vô minh mà không chấp nhận được sự tịch diệt của Niết-bàn. Vì muốn duy trì sự thường hằng của ngũ uẩn, chúng sinh liên tục nhập thai để thọ sinh. Do đó, cứ lặp đi lặp lại việc chấp thủ đời sau, hình thành ngũ uẩn của kiếp tương lai, khiến bảy chuyển thức không thể tự mình tiêu diệt.
Hễ có nhập thai thì sẽ có sinh ra, có sinh ra thì chắc chắn sẽ đối mặt với bệnh, già, sầu, bi, và khổ đau, thậm chí là cái chết. Vì vậy, chúng sinh mãi mãi không thể bước vào cảnh giới Niết-bàn vô dư, và cũng không thể chứng đạt giải thoát sinh tử trong cảnh giới Niết-bàn hữu dư.
Ngoài vô minh được đề cập trong con đường giải thoát của Thanh Văn và Duyên Giác, còn có vô minh được nhắc đến trong con đường thành Phật của Đại thừa. Do đó, vô minh được chia thành hai loại:
- Vô minh của Nhị thừa Bồ-đề, được nói đến trong con đường giải thoát A-hàm.
- Vô minh của con đường Đại thừa Bồ-đề, hay con đường thành Phật.
Vô minh trong Nhị thừa Bồ-đề được gọi là “nhất niệm vô minh”, trong khi vô minh trong Đại thừa pháp lại thêm khái niệm “vô thủy vô minh”. Loại vô minh này đã tồn tại từ vô thủy, luôn không tương ứng với tâm chúng sinh. Chỉ đến khi khởi tâm động niệm muốn chứng ngộ thực tướng của pháp giới, chúng sinh mới bắt đầu tương ứng với vô thủy vô minh. Vì vậy, trong Đại thừa pháp, điều này được gọi là “tâm bất tương ứng vô thủy vô minh trụ địa”.
Ý nghĩa của vô minh là không biết. Nếu vì không biết tính hư vọng của ngũ uẩn mà sinh ra tham ái, đó là vô minh trong con đường giải thoát A-hàm. Nếu không biết thực tướng của pháp giới, thì đó là loại vô minh mà Bồ-tát phải đoạn trừ khi chứng đạt chân kiến đạo. Nguyên nhân là do không biết rằng vạn pháp đều sinh khởi từ nhập thai thức Như Lai tạng, nên bị bao trùm bởi vô minh cần được đoạn trừ trong Đại thừa kiến đạo.
Nhất Niệm Vô Minh là gì?
Nhất niệm vô minh còn được gọi là “phiền não chướng”. Ý nghĩa của con đường giải thoát là thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi trong tam giới, không còn bị nghiệp lực và vô minh chi phối, không còn luân chuyển trong lục đạo tam giới. Nhờ vậy, chúng sinh thoát khỏi sự tái sinh liên tục và sau đó lại phải đối diện với cái chết, cũng như chịu đựng đủ loại khổ đau từ sinh, lão, bệnh, tử.
Vì thế, ý nghĩa của con đường giải thoát chính là áp dụng giáo lý của Nhị thừa Bồ-đề để thực hành quán chiếu đúng đắn, đoạn trừ vô minh trong Nhị thừa Bồ-đề, tức là nhất niệm vô minh phiền não chướng, từ đó chứng đắc quả giải thoát, hay còn gọi là A-la-hán quả, đạt được sự thoát ly sinh tử luân hồi trong tam giới.
Vô thủy vô minh là gì?
Vô thủy vô minh được gọi là “sở tri chướng”. Nhiều người hiểu lầm về sở tri chướng, cho rằng “sở tri chướng là do biết quá nhiều nên cản trở việc tu đạo.” Thực ra, đây là một nhận thức sai lầm.
Ý nghĩa của sở tri chướng là không biết rõ bản tánh chân thực của Pháp giới thực tướng, từ đó gây trở ngại cho con đường tu tập thành Phật, nên được gọi là sở tri chướng. Đây là sự không hiểu biết về nội dung của kiến đạo và tu đạo trong con đường thành Phật. Vì thiếu hiểu biết đầy đủ về kiến đạo và tu đạo của Phật đạo, nên điều này trở thành chướng ngại trong việc học và hành trì Phật pháp. Do vậy, nó được gọi là sở tri chướng.
Nếu một người chứng đắc Tam thừa Bồ đề nhưng chỉ tương ứng với việc đoạn trừ nhất niệm vô minh, mà không tương ứng với việc đoạn trừ vô thủy vô minh, thì dù đó là chính pháp thật sự, vẫn chưa phải là liễu nghĩa. Lý do là vì đoạn trừ nhất niệm vô minh (phiền não chướng) chỉ có thể đoạn dần hoặc toàn phần các phiền não của phân đoạn sinh tử, và chỉ chứng đắc giải thoát quả A-la-hán mà Tam thừa đều có chung, nhưng không thể đạt đến Phật Bồ đề quả.
Như sự tu chứng của Nhị thừa Bồ đề và các bậc thông giáo Bồ-tát trong Đại thừa, đều chỉ đạt được giải thoát quả, nhưng vẫn không đoạn trừ và phá vỡ vô thủy vô minh sở tri chướng, do đó không thể thành Phật.
Còn như các bậc biệt giáo Bồ-tát trong Đại thừa, dựa vào kinh Bát Nhã để tu trì và chứng ngộ tự tâm Như Lai Tạng, tương ứng với thực tướng của vạn pháp, phá vỡ vô thủy vô minh sở tri chướng, sinh khởi trí tuệ Bát Nhã, và an trụ trong cảnh giới trung đạo. Trí tuệ và sự chứng ngộ này không phải là điều mà thông giáo Bồ-tát hay các bậc Nhị thừa định tính vô học có thể đạt được. Đây mới là liễu nghĩa chính pháp.
Những vị Bồ-tát này, nếu tiếp tục y cứ vào các kinh điển Duy thức trong Tam chuyển Pháp luân để tiến tu Nhất thiết chủng trí, và sinh khởi vô sinh pháp nhẫn của các địa mà chứng Đạo chủng trí, thì sẽ lần lượt tiến vào các địa, cho đến khi đoạn tận vô thủy vô minh sở tri chướng mà thành Phật.
Trên đây, Cảm ơn quý vị cùng Máy Niệm Phật Tú Huyền đã cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của vô minh, và biết rằng vô minh có thể phân thành hai loại: Nhất niệm vô minh phiền não chướng mà Tam thừa Bồ đề đều bao gồm, và vô thủy vô minh sở tri chướng, chỉ có trong Đại thừa Bồ đề, không bao gồm Nhị thừa Thanh Văn, Duyên Giác, và thông giáo Bồ-tát.
Bài viết tiếp theo, Tú Huyền sẽ tiếp tục nghiên cứu và giải thích sâu hơn về hai loại vô minh này, nhằm giúp quý vị đồng tu hiểu rõ hơn sự khác biệt giữa ba thừa Bồ đề, từ đó có thể làm nền tảng cho sự tu hành và trợ duyên trên con đường Bồ đề.
Hôm nay, do thời gian có hạn, Tú Huyền xin giải thích đến đây. A DI ĐÀ PHẬT!