Cái chết là một chủ đề mà mỗi người đều phải đối mặt. Sau khi con người chết đi, không phải là tất cả đã chấm dứt. Không phải là con người chết như ngọn đèn tắt, mà là thần thức (linh hồn) sẽ tiếp tục theo dòng nghiệp lực luân chuyển trong sáu đường. Nhiều người cảm thấy sau khi chết, mọi thứ đều chấm dứt, nhưng thực tế điều này không phù hợp với khoa học cũng như không phù hợp với những quan điểm tôn giáo.
Nghiên cứu tâm lý học hiện đại cho thấy, có rất nhiều người có ký ức về kiếp trước và có thể nhớ rõ các sự kiện trong kiếp trước, bao gồm cả việc nhận ra người thân, nhận ra vị trí, v.v. Và trong lĩnh vực này đã có nhiều sách được xuất bản, trong đó có cuốn “Luận về kiếp trước và kiếp này,” ghi lại nhiều trường hợp liên quan đến việc nhớ lại kiếp trước.
Vì vậy, sau khi con người chết đi, chắc chắn có đời sau, điều này đã được tôn giáo và khoa học chứng minh và ủng hộ. Vậy sau khi con người chết, họ sẽ đi về đâu? Làm thế nào để phán đoán liệu một người sau khi chết có được siêu thoát, vãng sinh về cõi Cực Lạc hay không?
Siêu thoát là gì ?
Siêu thoát mang ý nghĩa vượt qua hoặc giải thoát khỏi vòng sinh tử, hay còn gọi là luân hồi trong Phật giáo. Từ này thường được sử dụng để chỉ trạng thái tâm linh khi một người đạt được sự giải thoát khỏi những ràng buộc của thế gian, không còn bị ảnh hưởng bởi khổ đau và dục vọng.
Trong ngữ cảnh tôn giáo, “siêu thoát” có thể hiểu là một trạng thái đạt được nhờ thiền định, tu tập, và thực hành theo các giáo lý của Phật giáo hoặc Đạo giáo, nhằm hướng tới việc đạt được giác ngộ và trở về với bản tánh chân thật của mình.
Vãng sanh là gì?
Vãng sanh nghĩa là “sinh về” là một thuật ngữ trong Phật giáo, đặc biệt trong Tịnh Độ tông, chỉ việc tái sinh về cõi Cực Lạc (Tây Phương Cực Lạc), nơi Phật A Di Đà thuyết pháp. Đây là mục tiêu của người tu hành theo pháp môn này, với hy vọng sau khi qua đời, họ sẽ không còn phải luân hồi trong lục đạo mà được sinh về cõi Cực Lạc, một cảnh giới an lạc, không có khổ đau, nơi dễ dàng tu hành để đạt đến giải thoát cuối cùng và thành Phật.
Điều kiện để vãng sanh là thực hành niệm Phật (niệm danh hiệu A Di Đà Phật), cùng với việc giữ lòng tin sâu sắc vào Phật A Di Đà và phát nguyện được sinh về cõi Cực Lạc. Theo lời dạy của Phật A Di Đà trong các kinh điển Tịnh Độ, như Kinh Phật A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ, người nào thành tâm niệm Phật với sự tin tưởng và nguyện vọng mãnh liệt sẽ được tiếp dẫn về cõi Cực Lạc sau khi qua đời.
Vãng sanh không chỉ có nghĩa là tái sinh về một cõi khác mà còn mang ý nghĩa sâu xa về việc đạt đến sự giải thoát khỏi khổ đau, vòng luân hồi sinh tử và tiến đến giác ngộ.
Sư giống nhau và khác nhau giữa giải thoát và vãng sanh là gì?
Vãng sinh và siêu thoát đều liên quan đến việc giải thoát khỏi vòng luân hồi, nhưng chúng có sự khác biệt về mục tiêu và ý nghĩa trong các trường phái Phật giáo:
Giống nhau:
Cả vãng sinh và siêu thoát đều nói về sự giải thoát khỏi khổ đau và tái sinh, hướng tới trạng thái bình an vĩnh viễn. Cả hai khái niệm đều liên quan đến việc người tu hành thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, không còn phải chịu khổ đau và phiền não trong các cõi luân hồi.
Khác nhau:
Vãng sinh:
- Nghĩa cụ thể: Trong Tịnh Độ tông, “vãng sinh” chỉ việc sau khi chết, người tu hành tái sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà. Đây là một cõi thanh tịnh, không có khổ đau, thuận lợi cho việc tu hành để đạt tới giác ngộ cuối cùng.
- Pháp môn: Phương pháp chính để đạt vãng sinh là niệm Phật, giữ lòng tin tưởng sâu sắc vào Phật A Di Đà và phát nguyện sinh về Cực Lạc.
- Mục tiêu: Sau khi vãng sinh, người tu tiếp tục tu hành tại Cực Lạc để đạt giác ngộ hoàn toàn và thành Phật.
Siêu thoát:
- Nghĩa rộng: Siêu thoát là sự thoát khỏi vòng luân hồi nói chung. Nó không giới hạn trong một cõi nhất định mà là thoát khỏi tất cả các hình thức tái sinh trong lục đạo (trời, người, a-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục).
- Pháp môn: Siêu thoát có thể được đạt bằng nhiều phương pháp tu hành khác nhau, chẳng hạn như thiền định, giữ giới, thực hành Bát Chánh Đạo, và không nhất thiết chỉ qua niệm Phật.
- Mục tiêu: Mục tiêu của siêu thoát là đạt được trạng thái giải thoát hoàn toàn (Niết-bàn), nơi không còn sinh tử và khổ đau.
Tóm lại:
- Vãng sinh là một bước cụ thể trong con đường giải thoát của Tịnh Độ tông, nơi người tu hành được tái sinh về cõi Cực Lạc để tiếp tục tu hành.
- Siêu thoát là mục tiêu cuối cùng của tất cả người tu Phật, bất kể trường phái, để hoàn toàn thoát khỏi khổ đau và vòng luân hồi sinh tử.
Làm sao để biết người thân đã siêu thoát / Vãng sanh, những dấu hiệu nhận biết?
Trong 1 buổi tọa đàm về Phật Pháp, có 1 vị Phật Tử hỏi , Shop Tú Huyền xin phép các bạn đồng tu được trích dẫn lại như sau:
Mẹ tôi mất khi bà 92 tuổi. Tôi đã thực hiện trợ niệm cho bà tại hiện trường, và mẹ tôi cũng ra đi rất viên mãn. Mấy năm qua, tôi chưa từng mơ thấy bà. Vào dịp Thanh Minh vừa qua, tôi lại làm hồi hướng cho bà, và ngay trong đêm đó, tôi mơ thấy mẹ đến gặp tôi, chỉ xuất hiện trước mặt rồi rời đi, chỉ có một thoáng như vậy. Tôi không hiểu bà có ý gì? Bà đã được vãng sanh hay chưa?
Trả lời : Để biết người thân đã được vãng sanh / giải thoát hay không, để phán đoán có 2 cách:
- Từ lý thuyết để phán đoán: Chỉ cần niệm Phật thì có thể vãng sanh. Nếu bạn tin tưởng điều này thì đủ rồi.
- Từ hiện tượng để phán đoán: Điều này rất khó, chỉ có Phật mới có thể xác định, chúng ta không thể. Trừ khi là những người như Thiện Đạo Đại Sư, có tu hành chứng đắc và có thần thông.
Vì vậy, không nên nói dối, không biết mà giả vờ biết rồi đi nói với người khác. Hiện nay, có nhiều người bên ngoài tuyên bố rằng: “Người này đã vãng sanh, người kia không vãng sanh, người này thượng phẩm thượng sanh, người kia hạ phẩm hạ sanh.” Những lời phán đoán này, phần lớn không đáng tin cậy.
Có thể có người có chút ít thần thông, nhưng phần lớn không phải là khả năng của họ, mà là dựa vào các chúng sinh ở cõi quỷ để có được, gọi là “quỷ thông.”
Thế giới Cực Lạc, ngay cả các Thánh nhân Tiểu thừa cũng không thể nhìn thấy, còn các Bồ Tát Đại thừa cũng chỉ thấy một cách không hoàn chỉnh. Vậy thì những người ở các quốc gia Phật giáo Tiểu thừa như Thái Lan hay Sri Lanka, không tin vào A Di Đà Phật, không tin vào thế giới Cực Lạc, làm sao họ có thể nhìn thấy? Nếu có thể nhìn thấy, họ đã tin rồi.
Do đó, để phán đoán một người có vãng sanh siêu thoát hay không qua hiện tượng, biểu hiện là điều không thể đối với phàm phu. Chúng ta không cần phải kết luận hay phán đoán.
Chúng ta dựa vào gì để phán đoán người chết đã được siêu thoát ? Dựa vào niềm tin. Pháp môn Tịnh độ dùng lý thuyết để phán đoán, chứ không phải hiện tượng hay biểu hiện. Ví dụ, nếu bạn lên máy bay ở TPHCM để bay đến Hà Nội vào buổi sáng ngày 4, chỉ cần bạn lên máy bay lúc 9:30, chắc chắn bạn sẽ đến Hà Nội, không cần phải đến tận nơi để kiểm chứng hay dựa vào thần thông để nhìn thấy. Trừ khi máy bay gặp sự cố hoặc bạn không lên máy bay.
Dấu hiệu người chết siêu thoát vãng sanh hay không, tiêu chuẩn có hai điểm chính:
- Người đó có mong muốn vãng sanh hay không: Giống như việc chúng ta có muốn đi Hà Nội không, thì trước hết phải có ý nguyện. Đối với vãng sanh, điều quan trọng là phải phát nguyện muốn đến cõi Cực Lạc.
- Phương pháp vãng sanh có tìm được chưa: Nếu tìm được phương pháp, chắc chắn sẽ có thể vãng sanh. Phương pháp đó chính là niệm Phật. Như Thiện Đạo Đại Sư đã nói, những người chuyên tâm niệm Phật thì mười người đều vãng sanh, trăm người niệm Phật thì trăm người đều vãng sanh. Đây là cách Thiện Đạo Đại Sư xác định: Chỉ cần chuyên tâm niệm Phật, chắc chắn sẽ được vãng sanh.
Vì thế, không cần phải hỏi người khác xem liệu ai đó có vãng sanh hoặc siêu thoát hay không, mà chúng ta nên dùng lý thuyết để phán đoán. Điều quan trọng là niềm tin thật sự vào pháp môn niệm Phật và sự quyết tâm vãng sanh.
Thiện Đạo Đại Sư đã từ lâu đưa ra phán định rằng chúng ta không cần phải nhờ người khác đánh giá xem liệu ai đó đã vãng sanh hay chưa. Việc này không cần dựa trên hiện tượng bề ngoài, mà cần dựa trên lý thuyết Phật pháp.
Nếu muốn đánh giá qua hiện tượng, thì phải có khả năng vượt trội, tức là phải đạt được thần thông lớn lao, điều này chỉ có thể xảy ra khi đã đến cõi Cực Lạc. Vì vậy, chỉ khi đạt được trạng thái cao hơn, người ta mới có thể nhận biết và phán định đúng đắn.
Thiện Đạo Đại Sư giảng rằng cần phải có “tín tâm sâu sắc”. Chúng ta, những phàm phu nghiệp chướng nặng nề, không nên tò mò những điều kỳ lạ. Muốn biết một người có thực sự vãng sinh hay không thì đã là một sự tò mò không cần thiết rồi. Không nên tìm kiếm những điều thần kỳ hay kỳ lạ. Người niệm Phật nên hướng về sự bình thường, trở về với sự giản dị. Chỉ cần giữ lòng tin chân thật—tin rằng niệm Phật sẽ được vãng sinh, dù là giúp người khác trợ niệm hay siêu độ cho cha mẹ quá cố, khuyến khích người khác niệm Phật để vãng sinh là đủ.
Đây chính là tiêu chuẩn, dựa vào pháp làm tiêu chuẩn. Đặc biệt là trong pháp môn Tịnh độ, chỉ có Phật và Phật mới có thể biết một cách viên mãn. Chỉ có Thích Ca Mâu Ni Phật, các vị Phật ở sáu phương và A Di Đà Phật mới có thể biết được điều đó. Nếu bạn đi tìm các Bồ Tát để hỏi dấu hiệu người chết siêu thoát hay Biểu hiện của người chết không siêu thoát thì họ cũng sẽ không cho bạn phán đoán hay biết được.”
Như mọi người đã biết, Ấn Quang Đại Sư là sự tái sinh của Đại Thế Chí Bồ Tát. Vậy liệu Ấn Quang Đại Sư có thể phán đoán cho người khác hay không? Trong Văn Châu Ấn Quang Đại Sư có một bức thư đề cập đến một sự việc. Lúc đó ở Thượng Hải có một vị cư sĩ, học Phật đã hơn hai mươi năm, cũng rất ủng hộ chùa chiền và có một ảnh hưởng nhất định ở Thượng Hải. Nhưng có một ngày, khi vị cư sĩ này ra ngoài thì gặp tai nạn giao thông và ngay lập tức qua đời. Rất nhiều cư sĩ đã có chút thoái tâm, họ nghĩ rằng: “Vị cư sĩ này tu hành rất tốt, rất nghiêm túc, sao lại gặp tai nạn giao thông?” Đây là một câu hỏi. Câu hỏi thứ hai là, vị cư sĩ này gặp tai nạn giao thông, liệu có thể vãng sinh không?
Họ đã đi hỏi Ấn Quang Đại Sư. Ấn Quang Đại Sư tất nhiên đã giải thích cho mọi người từ lý luận. Đầu tiên, người này trong kiếp trước chắc chắn có nghiệp chướng khá nặng, hiện tại chỉ là nhận quả báo nhẹ cho tội nặng. Bởi vì ông ấy là người niệm Phật, nhìn bề ngoài có vẻ như đã gặp tai nạn, nhưng nếu xét từ nghiệp của chính ông, có thể còn phức tạp hơn nhiều so với chỉ gặp tai nạn giao thông.
Vài ngày trước, Pháp Sư Phật Hân đã kể một câu chuyện. Có một vị hòa thượng ra ngoài khất thực để sửa chữa chùa, đã lâu mà không ai cúng dường. Bên cạnh, có một cậu bé bán bánh, thấy thầy vất vả liền dùng toàn bộ số tiền bán bánh để cúng dường thầy. Thầy thấy cậu bé chân thành như vậy nên nói: “Nếu sau này con gặp khó khăn, hãy đến một nơi nào đó, tìm một ngôi chùa nào đó”. Nói xong, thầy rời đi.
Sau khi cúng dường Tam Bảo, đáng lẽ cậu bé phải đổi vận, nhưng sau đó lại bị bệnh, mắt bị mù. Từ trước đã nghèo, nay lại không nhìn thấy, cuộc sống càng khó khăn hơn. Cậu nhớ lời của vị hòa thượng, liền tìm đến ngôi chùa mà thầy đã chỉ.
Vị hòa thượng già trong chùa đã biết rằng vị thí chủ lớn sẽ đến, liền thông báo cho thầy tiếp khách và tất cả các tăng ni: “Hôm nay có một vị đại hộ pháp đến chùa, mọi người phải tiếp đãi chu đáo.” Rồi chùa bắt đầu chuẩn bị trọng thể, dọn dẹp, chuẩn bị đồ ăn, và tổ chức nghi lễ tiếp đón.
Mọi người đều nghĩ rằng sẽ có một ông lớn đến, chờ nửa ngày mà không có ai cả, chỉ có một cậu bé mù đến. Vị hòa thượng nói: “Đó chính là đại hộ pháp.” Bởi vì vị hòa thượng biết rằng cậu bé đã cúng dường tiền bán bánh để xây chùa, đó là sự cúng dường chân thành, không cầu mong gì
Vị hòa thượng già cho cậu bé ở lại trong chùa vài ngày, nhưng cuối cùng lại rơi xuống nhà vệ sinh và bị chết đuối. Việc xảy ra như vậy trong chùa khiến nhiều người càng không thể hiểu nổi. Vị hòa thượng có thần thông, đã nói với mọi người rằng cậu bé này vốn phải chịu quả báo của ba đời: một đời nghèo khổ, một đời mù lòa, và một đời chết đuối. Bây giờ, cậu đã hoàn thành quả báo của một đời, giảm bớt được hai đời, và hiện tại đã được sinh lên thiên giới.
Người ta thường thấy những chuyện như vậy sẽ nghi ngờ, cúng dường Tam Bảo mà sao vẫn xảy ra chuyện như thế? Nhận thức của con người rất hạn hẹp, từ góc nhìn của phàm phu, mỗi người đều như chú chuột nhìn thấy một chút, không thể nhìn xa hơn. Nếu phải phán xét cho người khác, làm sao có thể phán xét được? Nhân quả kéo dài vô lượng kiếp, ngay cả La Hán cũng không thể phán xét.
Có thể vãng sanh hay không là điều mà những người niệm Phật rất quan tâm. Nhiều người hy vọng sẽ có người trợ niệm trong giờ phút lâm chung, không có chướng ngại, và vãng sanh được suôn sẻ, thuận lợi. Việc gặp tai nạn giao thông thì chắc chắn không thể coi là thuận lợi. Trong lúc đó, liệu có thể đảm bảo giữ được chánh niệm không? Thật là khó khăn. Đừng nói đến tai nạn giao thông, chúng ta đã nói về cuộc đời của Đại sư Âu Duy trước đây, vào giai đoạn đầu tham thiền, cảnh giới rất cao, mọi thứ đều sáng tỏ, cả thân và tâm đều không còn, ngay cả “ta” cũng không còn.
Nhưng sau này, khi bệnh tật ập đến, nghiệp chướng hiện tiền, tất cả cảnh giới đều biến mất. Khi bệnh, không thể làm chủ được bản thân, mọi tu tập đều không thể giải quyết vấn đề của chính mình. Vì vậy, sau khi bệnh khỏi, Đại sư Âu Duy lại quay về niệm Phật. Trước cái chết, muốn giữ được chánh niệm là rất khó. Đại sư Âu Duy là một người tu hành, một cao tăng xuất gia, thường có cảnh giới tu tập cao, nhưng trong lúc bệnh tật, cũng không thể giữ được chánh niệm. Huống chi nếu là một người gặp tai nạn giao thông, ai có thể đảm bảo giữ được chánh niệm trong hoàn cảnh đó.
Vậy thì, Đại sư Ấn Quang đã phán đoán như thế nào? Ngài đã nói hai câu, thứ nhất: không biết người này có vãng sanh hay không; thứ hai: để biết người này có thể vãng sanh hay không, cần xem họ có tín nguyện hay không. Nếu họ thường xuyên có tín nguyện và mong muốn vãng sanh, thì họ có thể vãng sanh, mặc dù có gặp tai nạn giao thông. Còn về việc vị cư sĩ này có tín nguyện hay không, có mong muốn vãng sanh hay không, Ấn Quang đại sư cũng nói: tôi không biết, tôi cũng không thể phán đoán.
Từ đây, chúng ta có thể thấy, Ấn Quang đại sư sẽ không phán đoán một người có thể vãng sanh hay không, hoặc quả báo của một người như thế nào. Nếu bạn đi nói về quả báo, nói về thần thông, nói về cảnh giới, thì đó có chút giống như phàm phu giả mạo thánh nhân.
Do đó, sau này khi chúng ta đặt câu hỏi, cần biết cách hỏi, đừng thử thách thầy xem là phàm phu hay thánh nhân. Bạn hỏi một câu như vậy, thì thầy sẽ trả lời như thế nào? Nếu thầy dùng thần thông để trả lời bạn, thì thầy có vấn đề. Nếu không trả lời, bạn lại cảm thấy thầy không có khả năng.
Với danh phận của Ấn Quang đại sư, ngài cũng không phán đoán, mà chỉ lý luận để cho chúng ta hiểu.
Khi chúng ta trợ niệm cho người khác, không cần phải phán đoán xem họ có vãng sanh hay không. Chỉ cần thành tâm trợ niệm là đủ. Chúng ta chỉ hỏi về công việc mình làm, không hỏi về kết quả.
Chúng ta không phải xem xét hiệu quả. Vấn đề vãng sanh này lớn lao, chúng ta chỉ cần mong muốn đi là đủ. Những người bạn xung quanh sẵn lòng giúp đỡ, hỗ trợ, thương yêu và chăm sóc lẫn nhau, đến lúc lâm chung có thể tiễn đưa nhau, dĩ nhiên là có thể
Về việc khi nào ra đi, ở đâu ra đi, ra đi có nhẹ nhàng hay không, gia đình có cản trở hay không, con cái có thành toàn hay không, có ai đến trợ niệm hay không, tất cả những vấn đề này hãy giao cho A Di Đà Phật. Bởi vì có một số vấn đề không thể giải quyết bằng cách sắp xếp hay kế hoạch của chúng ta, cũng không phải là cứ muốn như thế nào thì có thể như thế đó.
Người tin Phật thì sẽ nghe theo sự sắp đặt của Phật, mọi thứ đều là tốt nhất. Dù có xảy ra tai nạn giao thông cũng là điều tốt nhất, vì tai nạn có thể giúp tiêu trừ nghiệp báo, giúp vãng sanh sớm hơn. Có người không phải muốn vãng sanh sớm hay sao?
Cách thức ra đi không quan trọng, điều quan trọng là có thể vãng sanh!
Dù chúng ta chết như thế nào, đứng chết, ngồi chết, nằm chết, ở bệnh viện chết, ở nhà chết, ở chùa chết, ở viện dưỡng lão chết… Cách chết có thể khác nhau, nhưng vãng sanh vẫn giống nhau. Chỉ cần đã vãng sanh thì không cần quan tâm đến cách thức ra đi, ra đi có đẹp hay không.
Nhiều người dành phần lớn tâm trí và năng lượng vào những điều bên ngoài, điều này đã lệch hướng. Chúng ta chỉ cần tập trung vào nguyện vãng sanh. Mình chỉ cần chịu khó niệm Phật, mọi vấn đề khác hãy giao cho A Di Đà Phật sắp xếp. Như vậy tâm hồn sẽ rất nhẹ nhàng và thanh thản.
Dù không có ai trợ niệm, thì vẫn là một mình ra đi, có người trợ niệm, thực ra vẫn là một mình ra đi. Ngay cả những người thân yêu nhất cũng không thể cùng ra đi. Giống như đi tiễn ở sân bay hay nhà ga, chỉ có thể tiễn đến cửa vào, sau đó là đến đó thôi.
Pháp môn Tịnh độ hoàn toàn dựa vào sức của Phật, quy mạng A Di Đà Phật, mọi việc đều do Phật gánh vác. Chỉ có những gì do Phật gánh vác, do Phật sắp đặt mới là tốt nhất.
Ngoài ra, khi chúng ta gặp vấn đề, cũng hãy giao vấn đề cho A Di Đà Phật, đừng tự ôm giữ những vấn đề đó. Thiện Đạo Đại Sư nói: “Ôm lấy nghi hoặc sẽ khiến ta tự mê.” Nếu ôm lấy nghi vấn, chúng ta sẽ lạc lối và mất phương hướng vãng sanh. Khi niệm Phật, nếu có nghi vấn hoặc một số vấn đề không thể giải đáp, thì phải làm sao? Hãy bỏ chúng cho A Di Đà Phật, không cần tìm câu trả lời.
Dù tìm ra bao nhiêu câu trả lời trong thế gian, cuối cùng vẫn phải buông bỏ. Một số nghi vấn thực ra không cần phải giải đáp. Trong thế gian có vô số câu hỏi, bao gồm cả các nhà khoa học, họ tự cho rằng hiểu biết hơn người thường, nhưng cuối cùng vẫn có nhiều vấn đề không thể giải đáp.
Phật pháp càng như vậy, sâu sắc và rộng lớn hơn. Khi hiểu được vấn đề này, câu hỏi tiếp theo lại xuất hiện, cứ thế không dứt.
Vì vậy, sống trong thế gian này, hãy an tâm niệm Phật, chân thành niệm Phật, đơn giản niệm Phật. Tất cả các vấn đề có thể chờ đến khi vãng sanh để giải quyết. Tất nhiên, sau khi vãng sanh cũng không cần giải quyết nữa, vì mọi vấn đề đều không còn.
Một số câu hỏi thường gặp về siêu thoát, vãng sanh và Những điều kiêng kỵ trong 100 ngày có tang
Xem thêm bài viết liên quan:
- Đốt vàng mã cho người âm có nhận được không? Phật tử nên biết
- Cuộc sống sau khi chết như thế nào? Phật tử nên tìm hiểu.
- Cách nhận biết và hóa giải oan gia trái chủ, Phật tử nên biết.
- Tại sao người mới mất phải che mặt? Đây không phải là mê tín mà có cơ sở khoa học.
- Tượng Phật, Kinh Phật và máy niệm Phật bị hư, không dùng nữa phải làm sao?
- Kinh Phật là gì ? Nguồn gốc của kinh Phật và giáo lý cơ bản của đạo Phật , Phật tử nên tìm hiểu