Tóm tắt 32 phẩm trong kinh Kim Cang ( Kim cương kinh )

Tóm tắt 32 Phẩm trong kinh Kim Cang

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng chân lý rốt ráo là bình đẳng, không có cao thấp, và sự giác ngộ chân thật không dựa vào tướng mạo hay hình thức bên ngoài. Người hành trì cần buông bỏ chấp trước vào cái tôi, không dính mắc vào phước báo mà vẫn tích lũy công đức vô biên.

Nhận thức sâu sắc rằng tất cả pháp vốn không có thực tánh, không cố chấp vào danh tướng, mới có thể đạt đến trí tuệ giải thoát. Đức Phật cũng nhấn mạnh rằng Như Lai không đến không đi, không sinh không diệt, chỉ có tâm thanh tịnh là con đường đưa đến Bồ-đề. Hãy cùng Máy Niệm Phật Tú Huyền tìm hiểu Tóm tắt 32 phẩm trong kinh Kim Cang.

Phẩm 1: Nhân Duyên Pháp Hội

Như vầy tôi nghe: Một thời, Đức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, cùng với đại chúng Tỳ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị.

Bấy giờ, đến giờ thọ trai, Thế Tôn khoác y, cầm bát vào đại thành Xá Vệ khất thực. Sau khi khất thực tuần tự trong thành, Ngài trở về nơi trú xứ. Sau khi thọ thực xong, Ngài thu y bát, rửa chân, trải tọa cụ mà ngồi.

Phẩm 2: Thiện Hiện Thỉnh Cầu

Lúc ấy, tôn giả Tu Bồ Đề đang ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo bày vai phải, quỳ gối bên phải xuống đất, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:

“Thật hy hữu thay, bạch Đức Thế Tôn! Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, lại khéo giao phó trách nhiệm cho các vị Bồ-tát. Bạch Thế Tôn! Bậc thiện nam, thiện nữ phát tâm cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì nên an trụ tâm như thế nào? Và làm sao để hàng phục vọng tâm?”

Phật dạy:

“Lành thay! Lành thay! Tu Bồ Đề! Như lời ông nói, Như Lai khéo hộ niệm và khéo giao phó trách nhiệm cho các vị Bồ-tát. Vậy ông hãy lắng nghe kỹ, Ta sẽ vì ông mà nói rõ. Thiện nam, thiện nữ phát tâm cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên an trụ tâm như thế này, hàng phục vọng tâm như thế này.”

Tôn giả Tu Bồ Đề thưa:

“Dạ vâng, bạch Thế Tôn! Chúng con mong được nghe.”

Phẩm 3: Chánh Tông Đại Thừa

Phật bảo Tu Bồ Đề:

“Các vị Bồ-tát Ma-ha-tát nên hàng phục tâm mình như thế này: Tất cả chúng sinh, dù là loài sinh từ trứng, từ thai, từ ẩm thấp hay hóa sinh; dù có sắc hay không sắc; có tưởng hay không có tưởng; hoặc chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng, Ta đều khiến cho họ nhập vào vô dư Niết-bàn mà diệt độ hoàn toàn.

Như vậy, dù diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được diệt độ cả. Vì sao vậy?

Này Tu Bồ Đề! Nếu một vị Bồ-tát còn chấp vào tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, thì chưa phải là chân thật Bồ-tát.”

Phẩm 4: Hạnh Diệu Không Trụ

Phật lại dạy:

“Này Tu Bồ Đề! Bồ-tát đối với pháp, không nên trụ chấp, mà phải hành bố thí. Nghĩa là không chấp vào sắc mà bố thí, không chấp vào âm thanh, mùi hương, vị, xúc chạm, hay pháp mà bố thí.

Này Tu Bồ Đề! Bồ-tát phải bố thí như thế, không trụ vào tướng. Vì sao vậy?

Nếu Bồ-tát không trụ vào tướng mà bố thí, thì phước đức không thể nghĩ bàn.

Này Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Không gian ở phương Đông có thể đo lường được chăng?”

Tu Bồ Đề thưa:

“Bạch Thế Tôn! Không thể.”

Phật hỏi tiếp:

“Này Tu Bồ Đề! Không gian ở phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn hướng phụ, trên và dưới, có thể đo lường được chăng?”

Tu Bồ Đề thưa:

“Bạch Thế Tôn! Cũng không thể.”

Phật dạy:

“Cũng như vậy, nếu Bồ-tát bố thí mà không trụ vào tướng, thì phước đức cũng không thể nghĩ bàn.

Này Tu Bồ Đề! Bồ-tát chỉ nên an trụ theo lời dạy này mà tu hành.”

Phẩm 5: Nhìn Thấy Như Lý Như Thực

Phật dạy:

  • “Này Tôn giả Tu Bồ Đề! Ông nghĩ sao? Có thể dùng tướng mạo mà thấy Như Lai chăng?”
  • Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Không thể dùng tướng mạo mà thấy Như Lai. Vì sao vậy? Vì Như Lai đã nói rằng tướng mạo đó không phải là tướng mạo chân thực.”
    Phật bảo Tu Bồ Đề:
  • “Tất cả các tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng không phải là tướng, tức là thấy Như Lai.”

Phẩm 6: Lòng Tin Chân Chánh Khó Gặp

Tu Bồ Đề bạch Phật:

  • “Bạch Thế Tôn! Có chúng sinh nào khi nghe được những lời dạy này có thể sanh lòng tin chân thật không?”
    Phật dạy:
  • “Chớ nói như vậy! Sau khi Như Lai diệt độ, trong vòng năm trăm năm sau, sẽ có những người giữ giới, tu phước, khi nghe những lời kinh Phật này mà có thể sanh lòng tin, tin đây là chân lý. Nên biết rằng những người ấy không chỉ gieo thiện căn nơi một Đức Phật, hai Đức Phật, hay ba, bốn, năm vị Phật, mà họ đã từng gieo trồng thiện căn nơi vô lượng ngàn vạn Đức Phật. Khi nghe những lời dạy này, dù chỉ trong một niệm mà sanh lòng tin thanh tịnh, thì này Tu Bồ Đề, Như Lai đều biết và thấy rõ. Những chúng sinh ấy sẽ được vô lượng phước đức.

Vì sao vậy? Vì những chúng sinh ấy không còn chấp vào tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả. Họ cũng không chấp vào pháp tướng hay phi pháp tướng. Vì sao vậy? Nếu tâm còn chấp vào tướng, tức là còn bám chấp vào ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Nếu chấp vào pháp tướng, cũng vẫn còn vướng mắc vào ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Nếu chấp vào phi pháp tướng, cũng vẫn chưa thoát khỏi sự bám chấp ấy.

Cho nên, không nên chấp vào pháp, cũng không nên chấp vào phi pháp. Vì lý do này, Như Lai thường dạy:

  • ‘Các thầy Tỳ-kheo! Hãy biết rằng pháp mà Ta giảng giống như chiếc bè đưa qua sông, ngay cả pháp cũng nên xả bỏ, huống chi là phi pháp!'”

Phẩm 7: Không Chấp Có Được Hay Không

Phật hỏi Tu Bồ Đề:

  • “Ông nghĩ sao? Như Lai có chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chăng? Như Lai có thuyết pháp chăng?”
    Tu Bồ Đề thưa:
  • “Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu ý nghĩa lời Phật dạy, thì không có pháp cố định nào gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng không có pháp nhất định nào mà Như Lai có thể thuyết giảng. Vì sao vậy? Vì những pháp mà Như Lai thuyết giảng đều không thể nắm giữ, không thể nói rõ ràng được, chẳng phải pháp, cũng chẳng phải phi pháp. Vì cớ gì? Vì tất cả bậc Hiền Thánh đều lấy pháp vô vi mà có sự sai biệt.”

Phẩm 8: : Các Pháp Đều Do Kinh Mà Sinh

Phật dạy:

  • “Này Tu Bồ Đề! Ông nghĩ sao? Nếu có người đem bảy báu đầy cả ba ngàn đại thiên thế giới để bố thí, thì người ấy được phước đức nhiều không?”
    Tu Bồ Đề đáp:
  • “Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Vì sao vậy? Vì phước đức đó không phải là bản thể của phước đức, cho nên Như Lai nói phước đức ấy là nhiều.”

Phật bảo Tu Bồ Đề:

  • “Nếu lại có người, đối với kinh này, dù chỉ tiếp nhận bốn câu kệ, rồi vì người khác giảng nói, thì phước đức của người ấy còn hơn cả người bố thí bảy báu đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Vì sao vậy? Vì tất cả chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật đều từ kinh này mà sinh ra. Này Tu Bồ Đề! Cái gọi là ‘Phật pháp’, kỳ thực không phải là Phật pháp.”

Phẩm 9: Một Tướng Không Tướng

Phật dạy:

  • “Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Một vị Tu Đà Hoàn có thể nghĩ rằng: ‘Ta đã chứng đắc quả Tu Đà Hoàn’ không?”
  • Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Không ạ. Vì sao vậy? Tu Đà Hoàn có nghĩa là ‘nhập lưu’, nhưng thật ra không nhập vào đâu cả. Không nhập vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đó mới gọi là Tu Đà Hoàn.”

Phật hỏi tiếp:

  • “Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Một vị Tư Đà Hàm có thể nghĩ rằng: ‘Ta đã chứng đắc quả Tư Đà Hàm’ không?”
  • Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Không ạ. Vì sao vậy? Tư Đà Hàm có nghĩa là ‘một lần trở lại’, nhưng thật ra không có chuyện trở lại. Đó mới gọi là Tư Đà Hàm.”

Phật lại hỏi:

  • “Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Một vị A Na Hàm có thể nghĩ rằng: ‘Ta đã chứng đắc quả A Na Hàm’ không?”
  • Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Không ạ. Vì sao vậy? A Na Hàm có nghĩa là ‘không còn trở lại cõi này nữa’, nhưng thật ra không có chuyện không trở lại. Đó mới gọi là A Na Hàm.”

Phật lại hỏi:

  • “Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Một vị A La Hán có thể nghĩ rằng: ‘Ta đã chứng đắc quả vị A La Hán’ không?”
  • Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Không ạ. Vì sao vậy? Vì thật ra không có pháp nào gọi là A La Hán. Nếu một vị A La Hán còn nghĩ rằng: ‘Ta đã chứng đắc quả vị A La Hán’, thì người ấy vẫn còn chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả.”

Tu Bồ Đề bạch Phật rằng:

  • “Bạch Thế Tôn! Ngài từng dạy rằng, con đã đạt được tam muội ‘Vô Tranh’, là người đứng đầu trong hàng đệ tử của Phật, là vị A La Hán đã dứt sạch tham dục. Nhưng bạch Thế Tôn, con chưa từng nghĩ rằng: ‘Ta là vị A La Hán đã dứt sạch tham dục’. Nếu con có nghĩ như thế, thì Thế Tôn đã không gọi con là người yêu thích hạnh viễn ly, an tịnh. Vì thật ra, con không có gì để hành, mà chỉ thuận theo tự nhiên, đó mới gọi là người yêu thích hạnh viễn ly, an tịnh.”

Phẩm 10: Trang Nghiêm Tịnh Độ

Phật dạy:

  • “Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Khi xưa, lúc ta ở nơi Đức Phật Nhiên Đăng, ta có chứng đắc pháp gì không?”
  • Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Không ạ. Vì sao vậy? Khi Thế Tôn ở nơi Đức Phật Nhiên Đăng, thực ra không có pháp gì để chứng đắc cả.”

Phật hỏi tiếp:

  • “Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Bồ Tát có trang nghiêm cõi Phật không?”
  • Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Không ạ. Vì sao vậy? Trang nghiêm cõi Phật, thực ra không phải là trang nghiêm, đó mới gọi là trang nghiêm.”

Phật dạy:

  • “Vậy nên, này Tu Bồ Đề! Các vị Bồ Tát nên phát tâm thanh tịnh. Không nên khởi tâm bám chấp vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Phải khởi tâm mà không chấp vào đâu cả.”

Phật lại dạy:

  • “Này Tu Bồ Đề! Ví như có người, thân cao lớn như núi Tu Di, ý ông thế nào? Thân đó có lớn không?”
  • Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Rất lớn. Vì sao vậy? Vì Phật dạy rằng: ‘Thân đó không phải là thân, đó mới gọi là thân lớn’.”

Phẩm 11: Công Đức Vô Vi Vượt Trội

Phật dạy:

  • “Này Tu Bồ Đề! Nếu lấy số cát trong sông Hằng mà đếm, thì số cát ấy có nhiều không?”
  • Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Vì sông Hằng đã vô số, huống chi là số cát trong sông.”

Phật dạy tiếp:

  • “Này Tu Bồ Đề! Giả sử có người dùng bảy báu (vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não) để bố thí, mà số lượng bảy báu ấy nhiều bằng số cát trong vô số sông Hằng, thì công đức có lớn không?”
  • Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Rất lớn ạ.”

Phật dạy:

  • “Nhưng, nếu có người thọ trì và giảng giải bốn câu kệ trong kinh này cho người khác, thì công đức còn lớn hơn rất nhiều.”

Phẩm 12: Tôn Trọng Chánh Pháp

Phật dạy:

  • “Này Tu Bồ Đề! Dù chỉ nói một bài kệ bốn câu trong kinh này, thì nơi đó sẽ được chư thiên, nhân loại, A-tu-la cung kính như chùa tháp của Phật. Huống hồ là có người có thể thọ trì, đọc tụng và giảng giải kinh này cho người khác.”

Phật dạy tiếp:

  • “Này Tu Bồ Đề! Hãy biết rằng, người ấy đã thành tựu pháp thù thắng bậc nhất, hy hữu bậc nhất. Bất cứ nơi nào có kinh điển này, nơi đó chính là có Phật, và những người tu hành chân chánh là đệ tử đáng tôn trọng của Phật.”

Phẩm 13: NHƯ PHÁP THỌ TRÌ

Bấy giờ, Tôn giả Tu Bồ Đề bạch Phật rằng:
– Bạch Thế Tôn! Kinh này nên gọi tên là gì? Và chúng con phải thọ trì như thế nào?

Phật bảo Tu Bồ Đề:
– Kinh này gọi là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, ông hãy y theo danh hiệu này mà thọ trì. Vì sao vậy? Tu Bồ Đề! Như Lai thuyết Bát Nhã Ba La Mật, tức không phải Bát Nhã Ba La Mật, đó mới gọi là Bát Nhã Ba La Mật.

– Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Như Lai có thuyết pháp chăng?

Tu Bồ Đề bạch rằng:
– Bạch Thế Tôn! Như Lai thật không có thuyết pháp.

Phật hỏi tiếp:
– Tu Bồ Đề! Trong tam thiên đại thiên thế giới có vô số vi trần, có nhiều không?

Tu Bồ Đề đáp:
– Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật dạy:
– Các vi trần này, Như Lai nói không phải vi trần, đó mới gọi là vi trần. Như Lai nói thế giới này không phải thế giới, đó mới gọi là thế giới.

– Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Có thể do ba mươi hai tướng mà thấy Như Lai chăng?

Tu Bồ Đề thưa:
– Bạch Thế Tôn! Không thể dùng ba mươi hai tướng để thấy Như Lai. Vì sao vậy? Vì Như Lai nói ba mươi hai tướng tức không phải tướng, đó mới gọi là ba mươi hai tướng.

Phật bảo:
– Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào đem thân mạng nhiều như cát sông Hằng để bố thí, lại có người khác nghe kinh này, dù chỉ thọ trì bốn câu kệ và truyền dạy cho người khác, phước đức của người này còn nhiều hơn!

Phẩm 14: LY TƯỚNG TỊCH DIỆT

Bấy giờ, Tôn giả Tu Bồ Đề nghe xong kinh này, thâm nhập ý nghĩa, liền rơi lệ, bạch Phật rằng:

– Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Đức Phật đã giảng dạy kinh điển thậm thâm như vậy. Từ trước đến nay, con nhờ huệ nhãn nhưng chưa từng nghe kinh này. Nếu có người được nghe kinh này, tâm tin thanh tịnh, thì liền sinh ra thực tướng. Nên biết rằng người này thành tựu công đức bậc nhất hy hữu.

– Bạch Thế Tôn! Cái gọi là thực tướng, tức không phải tướng, cho nên Như Lai gọi đó là thực tướng.

– Bạch Thế Tôn! Con nay được nghe kinh này, tin hiểu và thọ trì chẳng phải là khó. Nhưng nếu sau năm trăm năm sau này, có người được nghe kinh này mà có thể tin hiểu, thọ trì thì người đó mới thật là bậc tối thượng hy hữu. Vì sao vậy? Vì người đó không chấp vào ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng.

Phật bảo Tu Bồ Đề:
– Đúng như vậy, đúng như vậy! Nếu có người nghe kinh này mà không kinh sợ, không hoảng hốt, không lo âu, thì nên biết người này rất là hy hữu.

– Vì sao vậy? Tu Bồ Đề! Như Lai nói Ba La Mật bậc nhất, tức không phải Ba La Mật bậc nhất, đó mới gọi là Ba La Mật bậc nhất.

– Tu Bồ Đề! Nhẫn Nhục Ba La Mật, Như Lai nói không phải Nhẫn Nhục Ba La Mật, đó mới gọi là Nhẫn Nhục Ba La Mật.

– Vì sao vậy? Tu Bồ Đề! Như thuở xưa, khi ta bị vua Ca Lợi cắt thân thể ra từng mảnh, ta lúc đó không có ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng. Nếu khi ấy ta còn có tướng này, chắc chắn ta đã sinh tâm sân hận.

– Tu Bồ Đề! Lại nhớ lại trong quá khứ suốt năm trăm đời, ta từng làm vị tiên nhẫn nhục, trong các đời đó, ta không hề chấp vào ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng.

– Do vậy, Tu Bồ Đề! Người Bồ Tát nên lìa tất cả tướng mà phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Không nên sinh tâm chấp trước vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà nên phát tâm vô sở trụ. Nếu tâm có chỗ trụ, tức không phải chân thật trụ.

– Vì vậy, Phật dạy rằng: Bồ Tát khi bố thí, tâm không nên chấp vào sắc tướng.

– Tu Bồ Đề! Bồ Tát vì lợi ích tất cả chúng sinh nên bố thí như vậy. Như Lai nói rằng tất cả các tướng đều là phi tướng, tất cả chúng sinh đều là phi chúng sinh.

– Tu Bồ Đề! Như Lai là bậc chân ngữ, thật ngữ, như ngữ, không vọng ngữ, không dị ngữ.

– Tu Bồ Đề! Pháp mà Như Lai chứng đắc, pháp đó không có thực, cũng không có hư.

– Tu Bồ Đề! Nếu tâm Bồ Tát chấp vào pháp mà bố thí, thì giống như người đi trong bóng tối, không thấy gì cả. Nếu tâm Bồ Tát không chấp vào pháp mà bố thí, thì giống như người có mắt, đi trong ánh sáng, thấy rõ muôn vật.

– Tu Bồ Đề! Trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào có thể thọ trì, đọc tụng kinh này, thì Như Lai sẽ dùng trí tuệ Phật để biết và thấy rõ người đó, giúp họ thành tựu vô lượng công đức.

Phẩm 15: CÔNG ĐỨC THỌ TRÌ KINH

Phật dạy:

– Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào trong buổi sáng lấy thân mạng nhiều như cát sông Hằng để bố thí, vào buổi trưa lại tiếp tục bố thí như vậy, đến buổi tối cũng tiếp tục bố thí thân mạng, và cứ như thế trong vô số kiếp.

– Nhưng nếu có người nghe kinh này mà tin tưởng không trái nghịch, thì phước của họ hơn hẳn những người trên. Huống chi người ấy còn chép lại, thọ trì, đọc tụng, và giảng giải cho người khác nghe, công đức lại càng không thể nghĩ bàn!

– Tu Bồ Đề! Kinh này có công đức vô lượng, không thể đo lường, là kinh được Như Lai thuyết cho những ai phát tâm Đại Thừa, phát tâm Tối Thượng Thừa.

– Nếu có người có thể thọ trì, đọc tụng, và truyền bá rộng rãi, thì Như Lai sẽ biết và thấy người ấy, giúp họ thành tựu công đức không thể tính đếm, không thể đo lường, không có biên giới.

– Tu Bồ Đề! Nếu có người ham thích pháp nhỏ, còn chấp vào ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, thì sẽ không thể nghe, thọ trì, đọc tụng và giảng giải kinh này cho người khác.

Phẩm 16: CÓ THỂ TỊNH HOÁ NGHIỆP CHƯỚNG

Lại nữa, Đức Phật dạy:

“Này Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì, đọc tụng kinh này, mà bị người khác khinh rẻ, thì biết rằng người ấy do đời trước tạo nghiệp xấu ác đáng lẽ phải đọa vào ác đạo. Nhưng vì đời này bị người khác khinh rẻ, nên tội chướng đời trước được tiêu trừ, và tương lai nhất định sẽ chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

Này Tu Bồ Đề! Ta nhớ lại vô lượng A-tăng-kỳ kiếp trước, từng gặp Đức Nhiên Đăng Phật và đã cung kính cúng dường, phụng sự tám trăm bốn mươi vạn ức na-do-tha chư Phật, không có một vị Phật nào mà ta không phụng thờ.

Nếu có người ở đời mạt pháp sau này, có thể thọ trì, đọc tụng kinh này, thì công đức người ấy so với công đức ta cúng dường chư Phật còn vượt trội hơn gấp trăm phần, ngàn vạn ức phần, thậm chí không thể dùng toán số, thí dụ để so sánh được.

Này Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào ở đời sau có thể thọ trì, đọc tụng kinh này, thì công đức ấy không thể nghĩ bàn. Nếu ta nói rõ ra, có thể có người nghe xong mà tâm sinh nghi ngờ, hoang mang không tin tưởng.

Này Tu Bồ Đề! Hãy biết rằng, nghĩa lý của kinh này không thể suy lường, mà quả báo thù thắng của nó cũng không thể nghĩ bàn vậy.”

Phẩm 17: RỐT RÁO VÔ NGÃ

Bấy giờ, Tôn giả Tu Bồ Đề bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì nên an trụ như thế nào? Làm sao để hàng phục tâm mình?”

Đức Phật bảo Tu Bồ Đề:

“Này Tu Bồ Đề! Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên khởi tâm như thế này:

‘Ta phải độ thoát tất cả chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào thật sự được độ thoát cả. Vì sao vậy? Nếu Bồ Tát còn chấp vào tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, thì không phải là Bồ Tát chân chính.’

Vì sao vậy?

Này Tu Bồ Đề! Thật sự không có pháp nào gọi là ‘phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác’ cả.

Này Tu Bồ Đề! Ông nghĩ sao? Đức Như Lai có pháp nào được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nơi Đức Nhiên Đăng Phật chăng?”

Tu Bồ Đề thưa:

“Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu nghĩa Phật dạy, thì Đức Phật nơi Đức Nhiên Đăng không có pháp nào gọi là được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”

Phật bảo:

“Đúng vậy, đúng vậy! Này Tu Bồ Đề! Thật sự không có pháp nào mà Như Lai chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Nếu có pháp nào mà Như Lai chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì Đức Nhiên Đăng Phật đã không thọ ký cho ta: ‘Ngươi về sau sẽ thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni.’

Bởi vì thật sự không có pháp nào gọi là chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho nên Đức Nhiên Đăng Phật mới thọ ký cho ta như vậy.

Vì sao vậy?

Như Lai chính là nghĩa của các pháp như như. Nếu có người nói rằng Như Lai chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì này Tu Bồ Đề, thật sự không có pháp nào để chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Tu Bồ Đề! Cái gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Như Lai, trong đó không có thật, cũng không có hư vọng. Vì vậy, Như Lai nói rằng tất cả pháp đều là Phật pháp.

Này Tu Bồ Đề! Cái gọi là ‘tất cả pháp’, thực ra không phải là tất cả pháp, cho nên gọi là tất cả pháp.”

Phật hỏi:

“Này Tu Bồ Đề! Ví như thân người cao lớn chăng?”

Tu Bồ Đề bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Như Lai nói thân người cao lớn, nhưng thực ra đó không phải là thân lớn, đó mới gọi là thân lớn.”

Phật dạy:

“Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát cũng vậy. Nếu Bồ Tát nghĩ rằng ‘Ta sẽ độ thoát vô lượng chúng sinh’, thì không phải là Bồ Tát chân chính.

Vì sao vậy?

Này Tu Bồ Đề! Thật sự không có pháp nào gọi là Bồ Tát cả. Vì thế, Như Lai nói rằng: ‘Tất cả pháp không có ngã, không có nhân, không có chúng sinh, không có thọ giả.’

Này Tu Bồ Đề! Nếu có Bồ Tát nào nghĩ rằng ‘Ta sẽ trang nghiêm cõi Phật’, thì không gọi là Bồ Tát.

Vì sao vậy?

Như Lai nói rằng ‘trang nghiêm cõi Phật’ chính là không có trang nghiêm, đó mới gọi là trang nghiêm.

Này Tu Bồ Đề! Nếu có Bồ Tát nào thấu đạt pháp vô ngã, thì Như Lai gọi đó là Bồ Tát chân chính.”

Phẩm 18: NHẤT THỂ ĐỒNG QUÁN

Phật hỏi Tôn giả Tu Bồ Đề:

  • “Ông nghĩ sao? Như Lai có nhục nhãn (mắt thịt) không?”
    Tu Bồ Đề đáp:
  • “Bạch Thế Tôn! Như Lai có nhục nhãn.”

Phật lại hỏi:

  • “Ông nghĩ sao? Như Lai có thiên nhãn không?”
    Tu Bồ Đề thưa:
  • “Bạch Thế Tôn! Như Lai có thiên nhãn.”

Phật tiếp tục hỏi:

  • “Ông nghĩ sao? Như Lai có tuệ nhãn không?”
    Tu Bồ Đề đáp:
  • “Bạch Thế Tôn! Như Lai có tuệ nhãn.”

Phật lại hỏi:

  • “Ông nghĩ sao? Như Lai có pháp nhãn không?”
    Tu Bồ Đề thưa:
  • “Bạch Thế Tôn! Như Lai có pháp nhãn.”

Phật hỏi thêm:

  • “Ông nghĩ sao? Như Lai có Phật nhãn không?”
    Tu Bồ Đề đáp:
  • “Bạch Thế Tôn! Như Lai có Phật nhãn.”

Phật lại hỏi:

  • “Ông nghĩ sao? Những hạt cát trong sông Hằng, Như Lai gọi chúng là cát, có đúng không?”
    Tu Bồ Đề đáp:
  • “Bạch Thế Tôn! Đúng vậy, Như Lai gọi đó là cát.”

Phật hỏi tiếp:

  • “Ông nghĩ sao? Nếu mỗi hạt cát trong một con sông Hằng lại trở thành một con sông Hằng khác, số hạt cát trong tất cả những con sông Hằng đó sẽ rất nhiều, phải không?”
    Tu Bồ Đề thưa:
  • “Bạch Thế Tôn! Quả thật là rất nhiều.”

Phật dạy:

  • “Tất cả chúng sanh trong vô số cõi Phật đó, tâm niệm của họ như thế nào, Như Lai đều biết rõ. Vì sao? Vì Như Lai nói rằng tất cả các tâm niệm đều không phải là tâm, mà chỉ gọi là tâm. Vì sao? Vì tâm quá khứ không thể nắm bắt, tâm hiện tại không thể nắm bắt, tâm vị lai cũng không thể nắm bắt.”

Phẩm 19: PHÁP GIỚI THÔNG HÓA

Phật hỏi Tu Bồ Đề:

  • “Ông nghĩ sao? Nếu có người dùng bảy báu (vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, mã não, san hô) để bố thí đầy khắp ba nghìn đại thiên thế giới, người ấy có được phước đức nhiều không?”
    Tu Bồ Đề thưa:
  • “Bạch Thế Tôn! Người ấy sẽ được phước đức rất nhiều.”

Phật dạy:

  • “Nếu phước đức có thực thể, thì Như Lai sẽ không nói rằng phước đức ấy là nhiều. Vì phước đức vốn không có thực thể, nên Như Lai nói rằng phước đức ấy là nhiều.”

Phẩm 20 : LY SẮC LY TƯỚNG

Phật hỏi:

  • “Ông nghĩ sao? Có thể thấy Như Lai qua sắc thân đầy đủ không?”
    Tu Bồ Đề thưa:
  • “Bạch Thế Tôn! Không thể thấy Như Lai qua sắc thân đầy đủ.”

Phật hỏi:

  • “Vì sao?”
    Tu Bồ Đề đáp:
  • “Vì Như Lai dạy rằng sắc thân đầy đủ, tức chẳng phải sắc thân đầy đủ, đó chỉ gọi là sắc thân đầy đủ.”

Phật lại hỏi:

  • “Ông nghĩ sao? Có thể thấy Như Lai qua tướng hảo đầy đủ không?”
    Tu Bồ Đề đáp:
  • “Bạch Thế Tôn! Không thể thấy Như Lai qua tướng hảo đầy đủ.”

Phật hỏi:

  • “Vì sao?”
    Tu Bồ Đề thưa:
  • “Vì Như Lai nói rằng tướng hảo đầy đủ, tức chẳng phải tướng hảo đầy đủ, chỉ gọi là tướng hảo đầy đủ.”

Phẩm 21: PHI THUYẾT SỞ THUYẾT

Phật dạy:

  • “Tu Bồ Đề! Ông chớ nghĩ rằng Như Lai có suy nghĩ như thế này: ‘Ta sẽ thuyết pháp’. Chớ nghĩ như vậy! Vì sao? Nếu có người nói rằng Như Lai có thuyết pháp, thì người ấy là phỉ báng Phật, không hiểu ý nghĩa lời dạy của Ta.
  • “Tu Bồ Đề! Người thuyết pháp, thật ra không có pháp gì để thuyết, đó mới gọi là thuyết pháp.”

Lúc ấy, Tôn giả Tu Bồ Đề bạch Phật:

  • “Bạch Thế Tôn! Trong tương lai, liệu có chúng sanh nào nghe pháp này mà sanh lòng tin chăng?”

Phật dạy:

  • “Tu Bồ Đề! Những chúng sanh đó, không phải chúng sanh, cũng chẳng phải không phải chúng sanh. Vì sao? Vì Như Lai nói rằng ‘chúng sanh’, tức chẳng phải chúng sanh, chỉ gọi là chúng sanh.”

Phẩm 22: VÔ PHÁP KHẢ ĐẮC

Tu Bồ Đề bạch Phật:

  • “Bạch Thế Tôn! Ngài chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề), có phải là không có gì để chứng đắc chăng?”

Phật dạy:

  • “Đúng vậy! Đúng vậy! Tu Bồ Đề! Ta đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thật sự không có một pháp nào có thể chứng đắc, đó mới gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”

Phẩm 23: Tịnh Tâm Hành Thiện

Lại nữa, Phật bảo: “Này Tu-bồ-đề! Pháp này bình đẳng, không có cao thấp, đó gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì không có ngã, không có nhân, không có chúng sinh, không có thọ giả, tu tất cả pháp lành thì sẽ đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Tu-bồ-đề! Những gì gọi là pháp lành, Như Lai nói tức chẳng phải pháp lành, chỉ tạm gọi là pháp lành.”

Phẩm 24: Phước Trí Vô Tỷ

“Này Tu-bồ-đề! Nếu có người đem bảy báu chất đầy như núi Tu-di trong ba ngàn đại thiên thế giới để bố thí, và có người thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Bát-nhã Ba-la-mật này, dù chỉ bốn câu kệ, thì phước đức của người này hơn hẳn phước đức trước kia, không thể so sánh được, dù tính bằng trăm, ngàn, vạn, ức phần, hay dùng thí dụ cũng không thể diễn tả hết.”

Phẩm 25: Hóa Vô Sở Hóa

“Này Tu-bồ-đề! Ý nghĩ thế nào? Các ngươi chớ nên nghĩ rằng Như Lai có ý niệm: ‘Ta sẽ độ chúng sinh.’ Này Tu-bồ-đề! Chớ nghĩ như vậy! Vì sao? Thật ra không có chúng sinh nào được Như Lai độ. Nếu có chúng sinh được Như Lai độ, thì Như Lai có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Này Tu-bồ-đề! Như Lai nói có ngã, tức chẳng phải có ngã, nhưng kẻ phàm phu lại cho là có ngã. Này Tu-bồ-đề! Phàm phu, Như Lai nói tức chẳng phải phàm phu, chỉ tạm gọi là phàm phu.”

Phẩm 26: Pháp Thân Phi Tướng

“Này Tu-bồ-đề! Ý ngươi nghĩ sao? Có thể dùng ba mươi hai tướng tốt để thấy Như Lai không?” Tu-bồ-đề thưa: “Bạch Thế Tôn! Đúng vậy, có thể dùng ba mươi hai tướng tốt để thấy Như Lai.” Phật bảo: “Này Tu-bồ-đề! Nếu dùng ba mươi hai tướng tốt để thấy Như Lai, thì Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như Lai.” Tu-bồ-đề thưa: “Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu ý Phật dạy, không nên dùng ba mươi hai tướng tốt để thấy Như Lai.” Khi ấy, Thế Tôn nói kệ:
“Nếu dùng sắc thấy Ta,
Dùng âm thanh cầu Ta,
Người ấy hành tà đạo,
Không thể thấy Như Lai.”

Phẩm 27: Vô Đoạn Vô Diệt

“Này Tu-bồ-đề! Nếu ngươi nghĩ: ‘Như Lai không do đầy đủ tướng mà đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.’ Này Tu-bồ-đề! Chớ nghĩ như vậy: ‘Như Lai không do đầy đủ tướng mà đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.’ Này Tu-bồ-đề! Nếu ngươi nghĩ như vậy, người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác sẽ rơi vào đoạn diệt. Chớ nghĩ như vậy! Vì sao? Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không nói các pháp đoạn diệt.”

Phẩm 28: Bất Thọ Bất Tham

“Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát đem bảy báu đầy khắp thế giới nhiều như cát sông Hằng để bố thí, và có người hiểu rõ tất cả pháp vô ngã, đạt được nhẫn nhục, thì công đức của vị Bồ-tát này hơn hẳn công đức trước. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì các Bồ-tát không thọ nhận phước đức.” Tu-bồ-đề thưa: “Bạch Thế Tôn! Tại sao Bồ-tát không thọ nhận phước đức?” Phật dạy: “Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát làm phước đức nhưng không tham đắm, nên nói là không thọ nhận phước đức.”

Phẩm 29: Uy Nghi Tịch Tĩnh

“Này Tu-bồ-đề! Nếu có người nói: ‘Như Lai hoặc đến, hoặc đi; hoặc ngồi, hoặc nằm.’ Người ấy không hiểu ý Ta nói. Vì sao? Như Lai không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai.”

Phẩm 30: Nhất Hợp Lý Tướng

“Này Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam, thiện nữ lấy ba ngàn đại thiên thế giới nghiền thành vi trần, ý ngươi nghĩ sao? Số vi trần ấy có nhiều không?” Tu-bồ-đề thưa: “Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Vì sao? Nếu vi trần thật sự có, Phật sẽ không nói là vi trần. Vì sao? Phật nói vi trần, tức chẳng phải vi trần, chỉ tạm gọi là vi trần. Bạch Thế Tôn! Như Lai nói ba ngàn đại thiên thế giới, tức chẳng phải thế giới, chỉ tạm gọi là thế giới. Vì sao? Nếu thế giới thật sự có, tức là một hợp tướng; Như Lai nói một hợp tướng, tức chẳng phải một hợp tướng, chỉ tạm gọi là một hợp tướng.” “Này Tu-bồ-đề! Một hợp tướng là điều không thể nói, nhưng kẻ phàm phu lại tham đắm vào đó.”

Phẩm 31: Tri Kiến Bất Sinh

Phật hỏi: “Này Tu-bồ-đề! Nếu có người nói: ‘Phật nói về ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến.’ Này Tu-bồ-đề! Ý ngươi nghĩ sao? Người ấy có hiểu ý Ta nói không?” Tu-bồ-đề thưa: “Bạch Thế Tôn! Người ấy không hiểu ý Như Lai nói. Vì sao? Thế Tôn nói về ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến, tức chẳng phải ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến, chỉ tạm gọi là ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến.”
Phật dạy: “Này Tu-bồ-đề! Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đối với tất cả pháp, nên biết như vậy, thấy như vậy, tin hiểu như vậy, không sinh khởi tướng pháp. Này Tu-bồ-đề! Những gì gọi là tướng pháp, Như Lai nói tức chẳng phải tướng pháp, chỉ tạm gọi là tướng pháp.”

Phẩm 32: Ứng Hóa Phi Chân

Phật dạy: “Này Tu-bồ-đề! Nếu có người đem bảy báu đầy khắp vô lượng A-tăng-kỳ thế giới để bố thí, và có thiện nam, thiện nữ phát tâm Bồ-đề, thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh này, dù chỉ bốn câu kệ, thì phước đức của người ấy hơn hẳn phước đức trước. Làm sao để giảng nói cho người? Không chấp vào tướng, như như bất động. Vì sao? Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng; như sương, như chớp, nên quán sát như vậy.”

Khi Phật nói kinh này xong, trưởng lão Tu-bồ-đề, cùng các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, và tất cả chư thiên, nhân loại, A-tu-la trong thế gian, nghe lời Phật dạy, đều vui mừng tin nhận, phụng hành theo lời dạy.


Xem thêm các bài viết Phật Pháp liên quan khác:

0/5 (0 Reviews)