Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là ai? Tượng trưng cho điều gì? Công hạnh và nguyện lực về ngài.

Ảnh Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát tiếng phạn là Manjushri được tôn kính là biểu tượng của trí tuệ siêu việt trong Phật giáo Đại thừa. Với lòng từ bi và trí tuệ sáng suốt, Ngài không chỉ là Pháp Vương Tử của chư Phật mà còn được xem là thầy của vô số vị Bồ Tát và chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Hãy cùng Máy Niệm Phật Tú Huyền cùng nhau tìm hiểu về sự tích công hạnh của Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát qua bài viết này. Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát la ai ?

Văn Thù Bồ Tát là một trong bốn đại Bồ Tát của Phật giáo, cùng với Phổ Hiền Bồ Tát là hai vị hầu cận của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong pháp hội Hoa Nghiêm, giúp Phật hoằng dương Phật pháp. Ngày vía Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát được xác định là ngày 04/04 Âm lịch hàng năm

Tên của ngài là Văn Thù Sư Lợi hay còn gọi là Mạn Thù Thất Lợi, còn gọi là “Diệu Đức”, hoặc còn gọi là Diệu Cát Tường.

Trong Phật giáo, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát được xem là Cổ Phật của ba đờiThầy của bảy Đức Phật. Kinh Thánh Vô Động Tôn Đại Uy Nộ Vương Mật Mật Đà La Ni chép rằng: “Diệu Cát Tường Bồ Tát là Mẫu của ba đời Phật.” Theo kinh điển Phật giáo, từ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp trước, Ngài đã thành Phật. Khi đó, Ngài là Đại Thân Như Lai ở thế giới Không Tịch và là Long Chủng Thượng Như Lai ở thế giới Bình Đẳng. Hiện tại, Ngài thị hiện thành Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Như Lai.

Vào thời Đức Phật Nhiên Đăng sắp thành Phật, Văn Thù đã từ bỏ vị trí của mình để trở thành Diệu Quang Bồ Tát, thuyết pháp cho Đức Nhiên Đăng. Sau đó, Ngài hóa hiện thành Bồ Tát để cùng Đức Phật Thích Ca độ hóa chúng sinh.

Trong tương lai, Văn Thù Sư Lợi sẽ thành Phật tại thế giới Vô Cấu, với danh hiệu Phổ Hiện Như Lai. Vì vậy, Ngài được gọi là Cổ Phật của ba đời. Trước đây, Đức Bồ Tát Văn Thù từng là Thầy của bảy Đức Phật. Kinh Xứ Thai ghi lại lời của Ngài: “Xưa là Thầy của Năng Nhân, nay làm đệ tử của Phật. Hai tôn quý không cùng hiện hữu, nên ta nay là Bồ Tát.” Ý nghĩa của câu này là: Cổ Phật phát nguyện trở lại để trợ duyên cùng chư Phật độ sinh.

Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, từ vô lượng kiếp trước, tại thế giới ở phương Nam có một vị Phật với danh hiệu Long Chủng Thượng Như Lai, chính là hiện thân của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ngày nay.

Trong Kinh Ương Quật Ma La, có nói rằng, ở phương Bắc có một thế giới tên là Thường Hỷ Thế Giới, trong đó có vị Phật Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích, cũng chính là hiện thân của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là con của ai?

Văn Thù Bồ Tát và A Di Đà Phật từng là cha con trong nhân địa

Trong Kinh Bi Hoa, có ghi rằng khi Phật Di Đà còn là một vị Chuyển Luân Thánh Vương, ngài có ba người con trai. Người con trai thứ ba tên là Vương Chúng, tại nơi Đức Phật Bảo Tạng đã phát tâm cầu đạo A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác), nguyện rằng trong vô số kiếp sau này, ngài sẽ không ngừng tu hành hạnh Bồ Tát, không mệt mỏi chán nản mà trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật quốc.

Ngài mong muốn tạo ra một thế giới trong sạch, hợp nhất từ những thế giới rộng lớn như cát sông Hằng của mười phương, và khiến tất cả những nơi ngài giáo hóa trở thành một cõi duy nhất. Trong thế giới đó, tràn đầy các bảo vật quý báu, không có sự ô uế, khổ đau và cũng không có các chúng sinh như Thanh Văn hay Duyên Giác chưa phát tâm Bồ Đề. Toàn bộ thế giới ấy sẽ được lấp đầy bởi những Bồ Tát Đẳng Giác, những vị sắp đạt được Phật vị.

Sau khi người con thứ ba phát nguyện, Đức Phật Bảo Tạng liền đặt cho ngài danh hiệu là Văn Thù Sư Lợi và thọ ký rằng trong tương lai, ngài sẽ viên mãn Phật quả ở cõi Phật ở phương Nam, trong thế giới Thanh Tịnh Vô Cấu Bảo Diễn, với danh hiệu là Phổ Hiện Như Lai.

Văn thù sư lợi bồ tát là nam hay nữ?

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thường được mô tả là một nhân vật nam trong Phật giáo. Ngài được biết đến như là biểu tượng của trí tuệ, và thường xuất hiện trong các hình ảnh cùng với một thanh kiếm và cưỡi trên một con sư tử. Tuy nhiên, trong một số truyền thuyết và cách hiểu, có thể thấy sự thể hiện của ngài mang tính chất phi giới tính, nghĩa là không nhất thiết phải gắn liền với giới tính nam hay nữ. Nhưng nhìn chung, ngài được coi là một Bồ Tát nam trong văn hóa và tín ngưỡng Phật giáo.

Xem và hiểu thêm : Đại Thế Chí Bồ Tát là nam hay nữ?

Hình ảnh đại trí văn thù Sư Lợi Bồ Tát

Hình Hoa Nghiêm Tam Thánh 01

Hình Thích Ca Tam Thánh 02

Hình ảnh Đại thế Chí Bồ Tát 03

Hình Ảnh Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 01

Hình Ảnh Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 02

Hình Ảnh Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 03

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 04

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 05

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 06

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 07

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 08

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 09

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 10

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 11

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 12

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 13

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 14

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 15

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 16

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 17

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 18

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 19

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 20

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 21

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 22

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 23

Hình Ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát 24

Sự tích về Trí tuệ và hành pháp của Văn Thù Bồ Tát

Văn Thù Bồ Tát đại diện cho căn bản trí của Phật pháp Đại thừa. Trong Kinh Quán Phật Tam Muội Hải, khi Thế Tôn giảng về phép tu Quán Phật Tam Muội cho đại chúng, Văn Thù Bồ Tát đã nói với mọi người rằng:

Vào thời Đức Phật Bảo Uy Đức Như Lai, có một vị trưởng giả có đức hạnh, con trai của vị ấy tên là Giới Hộ. Khi còn ở trong bụng mẹ, cậu bé đã thọ tam quy y. Đến năm tám tuổi, cha mẹ cậu mời Thế Tôn đến nhà trưởng giả để cúng dường. Khi ấy, cậu bé nhìn thấy Đức Phật với phong thái an nhiên, uy nghiêm, mỗi bước đi của Ngài đều sinh ra hoa sen dưới chân, thân tướng phát ra ánh sáng rộng lớn. Thấy vậy, cậu bé rất vui mừng, cung kính lễ Phật. Sau khi lễ bái, cậu bé chăm chú nhìn Đức Thế Tôn, ánh mắt không rời Ngài. Nhờ lần gặp Phật này, cậu đã tiêu trừ hàng triệu kiếp tội nặng sinh tử.

Từ đó, cậu bé sinh sinh kiếp kiếp thường gặp hàng tỷ tỷ chư Phật nhiều như cát sông Hằng. Các Đức Thế Tôn đều truyền dạy phép quán Phật tam muội. Sau đó, cậu bé gặp hàng triệu Đức Phật khác có cùng tên hiệu là Chiên Đàn Hải. Cậu đã thân cận, phụng sự và cúng dường chư Phật, không bỏ sót một vị nào, cung kính lễ bái và quan sát thân tướng của các Ngài. Nhờ công đức quan sát tướng hảo của Phật mà cậu bé đã có duyên gặp gỡ hàng triệu A-tăng-kỳ chư Phật khác. Từ đó, cậu chứng được hàng triệu ức niệm Phật tam muội và hàng triệu A-tăng-kỳ thần chú Đà La Ni. Sau khi đắc được tam muội và đà la ni này, chư Phật hiện tiền giảng cho cậu về pháp vô tướng, và ngay lập tức cậu chứng được đại định Thủ Lăng Nghiêm tam muội.

Nhờ vào lần thọ tam quy y và lễ bái Đức Phật đầu tiên, cùng với sự quan sát tướng hảo của Như Lai, tâm không mệt mỏi, cậu bé đã có thể gặp vô số chư Phật. Huống hồ là người luôn chuyên tâm niệm Phật, hoàn toàn suy tư và quan sát tướng hảo của Như Lai. Cậu bé lúc ấy, chẳng phải là ai khác, mà chính là ta – Văn Thù Sư Lợi!

Sau khi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói xong, Đức Thế Tôn nói với A Nan:

Con hãy ghi nhớ những lời của Văn Thù Sư Lợi và truyền lại cho mọi người trong đại chúng, cũng như chúng sinh đời sau. Nếu ai có thể lễ bái, niệm Phật, và quán Phật, thì người đó sẽ có công đức bình đẳng không khác gì với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Theo truyền thuyết được ghi chép trong “Truyền thuyết về Swayambhu”, thung lũng Kathmandu hiện tại trước đây vốn là một hồ lớn có tên là “Naga Dah” (tiếng Phạn: Naga Dah, nghĩa là “Hồ Rắn”). Sau đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đến, dùng kiếm chia cắt một ngọn núi phía nam của hồ, để thoát nước và giải thoát con rắn lớn sống trong hồ, hình thành nên thung lũng Kathmandu ngày nay. Bồ Tát Văn Thù cũng lấy danh nghĩa của mình để xây dựng một thành phố tại đây, gọi là “Mạn Thù Pattan”, chính là thành phố Patan ngày nay. Nơi mà ngọn núi bị chia cắt và nước hồ chảy ra, ngày nay được gọi là Chobar.

Truyền thuyết khác còn kể rằng, khi biết trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ ra đời tại vườn Lâm Tì Ni, mà lúc bấy giờ Nepal vẫn còn là một vùng đất đầm lầy hoang vu, Bồ Tát Văn Thù vì lòng từ bi, không ngại khó khăn, đã dẫn đầu hàng chục đệ tử, đến Nepal hơn 20 năm trước, dời núi lấp đầm để xây dựng thành phố, chuẩn bị đón chào sự xuất hiện của vị Phật vĩ đại xuống trần gian. Những con khỉ tại Swayambhunath ở Nepal chính là hóa thân từ chấy trên đầu của ngài.

Trong Phật giáo Hán truyền, núi Ngũ Đài ở huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây được coi là đạo tràng của Bồ Tát Văn Thù.

Vào thời nhà Thanh, các vị hoàng đế Mãn Châu còn có một danh xưng khác là “Hoàng Đế Văn Thù”, bắt đầu từ thời vua Thuận Trị. Tây Tạng đã gửi thư gọi các vị hoàng đế nhà Thanh bằng danh hiệu này. Hoàng đế Càn Long thậm chí còn tự phong là hóa thân của Bồ Tát Văn Thù, thông qua việc vẽ một loạt chân dung của chính mình, nhằm xây dựng hình ảnh “Hoàng Đế Văn Thù”.

Trong bản kinh “Hoa Nghiêm” tám mươi quyển có viết: “Ở phương Đông Bắc có một nơi tên là Thanh Lương Sơn (Ngũ Đài Sơn). Từ xưa đến nay, nhiều vị Bồ Tát đã an trú tại đó. Hiện tại có một vị Bồ Tát tên là Văn Thù Sư Lợi, cùng với quyến thuộc là một vạn vị Bồ Tát khác thường xuyên ở đó để giảng pháp.”

Trong kinh “Văn Thù Sư Lợi Pháp Bảo Tạng Đà La Ni”, có nói rằng: “Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo với Bồ Tát Kim Cang Mật Tích Chủ rằng: ‘Sau khi ta nhập diệt, ở phương Đông Bắc của Diêm Phù Đề có một quốc gia tên là Đại Chấn Na (là phiên dịch của Tần Quốc cổ xưa của Trung Quốc). Trong quốc gia này có một ngọn núi tên là Ngũ Đỉnh (chính là Ngũ Đài Sơn). Đồng tử Văn Thù Sư Lợi du hành và cư trú tại đó, để vì chúng sinh mà giảng pháp.”

Đối chiếu với kinh văn, người ta xác định rằng ngọn núi Ngũ Đỉnh, Thanh Lương Sơn chính là Ngũ Đài Sơn nằm trong huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Vì vậy, nơi này được công nhận là đạo tràng của Bồ Tát Văn Thù, và được tôn vinh là đệ nhất trong tứ đại danh sơn Phật giáo ở Trung Quốc.

Vào thời Hán Minh Đế, hai vị cao tăng Thiếp Ma ĐằngTrúc Pháp Lan đến đất nước Trung Hoa. Hoàng đế hỏi: “Ở đất này có vị thánh nhân nào hiện hóa không?” Các ngài đáp: “Ở Thanh Lương Sơn là nơi Bồ Tát Văn Thù Đại Sĩ cư trú.” Vì vậy, nhà vua đã xây dựng chùa chiền và độ tăng chúng cư trú tại đó. Ở trung tâm núi Ngũ Đài còn có Trí Tuệ Đăng, những ai thành tâm lễ bái sẽ chứng kiến được những kỳ tích.

Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát có cùng nguyện hành, đều hướng về Tịnh Độ

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử ban đầu học căn bản trí dưới sự chỉ dạy của Văn Thù Bồ Tát, sau đó bắt đầu hành trình ngũ thập tam tham (năm mươi ba lần tham học). Cuối cùng, khi gặp Phổ Hiền Bồ Tát, ngài Phổ Hiền đã dùng mười đại nguyện vương để khuyến khích Thiện Tài Đồng Tử cùng với các vị pháp thân đại sĩ trong pháp hội, hướng tâm hồi hướng về việc vãng sinh Tây Phương Cực Lạc, diện kiến Pháp Vương A Di Đà Phật. Nhờ nguyện lực và oai thần bổn nguyện của Phật A Di Đà, các vị nhanh chóng viên mãn quả vị Phật.

Trong Kinh Văn Thù Phát Nguyện và phần cuối của Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, những lời kệ nguyện khá tương đồng. Kinh Văn Thù Phát Nguyện có đoạn:

“Nguyện khi con lâm chung, diệt trừ hết các chướng ngại, diện kiến A Di Đà, vãng sinh về cõi An Lạc. Sinh về cõi nước ấy, hoàn thành các đại nguyện, A Di Đà Như Lai sẽ hiện tiền thọ ký cho con. Trang nghiêm hạnh nguyện của Phổ Hiền, viên mãn nguyện ước của Văn Thù, trải qua vô lượng kiếp về sau, trọn vẹn hành Bồ Tát đạo.”

Văn Thù và Phổ Hiền, hai vị đại thánh trợ giúp Phật Tỳ Lô Giá Na trong pháp hội Hoa Nghiêm, đã dùng hạnh nguyện và pháp môn mà các ngài giảng dạy cho chúng sinh đều dựa trên niệm Phậthướng về Tịnh Độ. Điều này thực sự là lời nhắc nhở sâu sắc cho những ai coi thường pháp môn Tịnh Độ.

Nhất Hạnh Tam Muội

Trong “Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật do Văn Thù Sư Lợi thuyết”, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi vì muốn giới thiệu phương pháp tu hành Nhất Hạnh Tam Muội cho đại chúng, nên đã thưa hỏi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Bạch Thế Tôn, thế nào gọi là Nhất Hạnh Tam Muội?” Phật dạy: “Pháp giới chỉ có một tướng, buộc duyên vào pháp giới, đó gọi là Nhất Hạnh Tam Muội. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn nhập vào Nhất Hạnh Tam Muội, trước hết phải nghe Bát Nhã Ba La Mật, rồi tu học theo như lời dạy, sau đó mới có thể nhập Nhất Hạnh Tam Muội.

Như duyên pháp giới, không thoái chuyển, không hư hoại, không thể nghĩ bàn, vô ngại, vô tướng. Thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn nhập Nhất Hạnh Tam Muội, nên ở nơi vắng vẻ, bỏ đi các ý loạn, không chấp tướng mạo, tâm chuyên niệm một vị Phật, xưng danh hiệu Ngài.

Tùy hướng mà Phật đang ở, thân ngồi ngay ngắn, trong từng niệm liên tục niệm Phật, tức là trong sự niệm đó, có thể thấy được các Đức Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Tại sao vậy? Vì công đức của việc niệm một vị Phật là vô lượng vô biên, cũng không khác gì công đức của vô lượng các Đức Phật, không thể nghĩ bàn, không có phân biệt.

Tất cả đều y theo một như, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đầy đủ vô lượng công đức và vô lượng biện tài. Người nhập Nhất Hạnh Tam Muội sẽ hiểu thấu mọi điều về các Đức Phật nhiều như cát sông Hằng và pháp giới, không có sai biệt. A Nan nhờ nghe Phật pháp mà đạt được tổng trì và biện tài trí tuệ, tuy được coi là bậc xuất chúng trong hàng Thanh Văn, nhưng vẫn còn giới hạn.

Nếu chứng đắc Nhất Hạnh Tam Muội, sẽ hiểu rõ tất cả các kinh điển và pháp môn, phân biệt từng điều một cách rốt ráo, quyết định không có chướng ngại. Ngày đêm thường thuyết giảng, trí tuệ và biện tài sẽ không bao giờ bị gián đoạn.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát tượng trưng cho điều gì?

Phật giáo cho rằng mọi khổ đau trong cuộc đời đều bắt nguồn từ vô minh, trạng thái tâm trí không thể nhìn thấy chân lý của sự vật hiện tượng. Để đối trị vô minh, cần phải nhờ đến bát-nhã, tức trí tuệ tương ứng với tánh Không. Trong Phật giáo, Văn Thù Bồ Tát được xem là biểu tượng của trí tuệ. Mặc dù Ngài không phải là nhân vật lịch sử, nhưng vì thể hiện rõ nét tư tưởng cốt lõi của Phật giáo, nên Ngài được tôn kính ở vị trí rất cao. Một số kinh điển còn đề cập rằng Văn Thù Bồ Tát chính là thầy của tất cả chư Phật ba đời.

Ngài Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đại diện cho trí tuệ, còn Phổ Hiền Bồ Tát đại diện cho đại hạnh. Trong các chùa chiền ở Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản, Văn Thù và Phổ Hiền thường được tôn trí hai bên Đức Phật, trở thành thị giả ở hai bên Ngài.

Về nguồn gốc của Văn Thù Bồ Tát, các kinh điển có nhiều thuyết khác nhau. Có thuyết cho rằng Ngài đã thành Phật từ vô lượng kiếp trước với danh hiệu Long Chủng Thượng Như Lai. Có thuyết khác nói Văn Thù là cha mẹ của chư Phật. Lại có truyền thuyết cho rằng Ngài là con trai thứ ba của A Di Đà Phật, hoặc là con gái cả của Vua Diệu Trang Vương. Trong số những thuyết lưu truyền rộng rãi, có quan niệm cho rằng Văn Thù là một trong những đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn tại Xá Vệ Quốc, sau đó theo Phật học đạo và trở thành một trong mười đại đệ tử của Phật. Dù Văn Thù có nguồn gốc nào đi nữa, hình tượng biểu trưng cho trí tuệ của Ngài trong Phật giáo vẫn luôn bất biến.

Hình tượng phổ biến nhất của Văn Thù Bồ Tát là tay phải cầm kiếm báu, tay trái cầm quyển kinh, và thú cưỡi trên một con sư tử lông xanh. Kiếm báu tượng trưng cho trí tuệ có thể chặt đứt mọi phiền não. Quyển kinh biểu thị ý nghĩa giúp chúng sinh thâm nhập vào biển kinh điển, trí tuệ rộng lớn như đại dương. Sư tử, được mệnh danh là chúa tể muôn thú, tượng trưng cho sự tuyên dương Phật pháp, còn được gọi là sư tử hống. Đức Phật cũng được tôn xưng là Sư Tử trong loài người, vì vậy, hình ảnh Văn Thù cưỡi sư tử mang ý nghĩa hoằng dương Phật pháp, cứu độ tất cả chúng sinh.

Văn Thù Bồ Tát được tôn làm vị đứng đầu trong Tứ Đại Bồ Tát của Phật giáo và là một trong Hoa Nghiêm Tam Thánh được dân gian nhắc đến. Núi Ngũ Đài ở Trung Quốc là nơi đã nhiều lần xảy ra những điềm cảm ứng linh thiêng liên quan đến Văn Thù Bồ Tát, nên được xem là thánh địa ứng hóa của Ngài

Chú Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát có ý nghĩa gì?

Cả hai phiên âm “Om Ah Ra Pa Tsa Na Dhi”“Om A Ra Pa Ca Na Dhih” đều là cách chuyển tự khác nhau của chú Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī Mantra), với sự khác biệt nhỏ về âm tiết do cách phát âm khác nhau giữa các ngôn ngữ (chẳng hạn như tiếng Phạn – Sanskrit và Tây Tạng). Dù có khác biệt nhỏ trong phát âm, cả hai đều giữ nguyên ý nghĩa và công năng khai mở trí tuệ và diệt trừ vô minh.

So sánh và giải thích sự khác biệt:

  1. Om Ah Ra Pa Tsa Na Dhi
    • Phiên âm này gần hơn với cách phát âm theo truyền thống Tây Tạng.
    • Âm “Tsa” mềm và nhẹ, phù hợp với ngữ âm Tây Tạng.
  2. Om A Ra Pa Ca Na Dhih
    • Đây là cách chuyển tự gần với nguyên bản Sanskrit hơn.
    • Âm “Ca” thay cho “Tsa” nhưng không làm thay đổi ý nghĩa của câu chú.
    • Âm “Dhih” được nhấn mạnh cuối câu, với nghĩa tượng trưng cho trí tuệ viên mãn, thường được kéo dài để tập trung vào sự khai sáng.

Ý nghĩa tổng thể:

  • “Om”: Thanh tịnh thân, khẩu, ý, đưa tâm thức về sự tỉnh giác tuyệt đối.
  • “Ah”: Khơi dậy sự tỉnh thức, tạo nền tảng cho trí tuệ phát triển.
  • “Ra Pa Ca Na / Tsa Na”: Tượng trưng cho các giai đoạn phát triển trí tuệ từ cơ bản đến viên mãn.
  • “Dhi” hoặc “Dhih”: Nhấn mạnh vào trí tuệ sâu sắc và sự giác ngộ. Khi tụng câu này, âm “Dhih” thường được kéo dài để tạo rung động mạnh mẽ trong tâm thức.

Cách thực hành với chú này:

  • Khi tụng niệm, hãy tập trung vào hơi thở, quán tưởng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ngồi trên hoa sen hoặc cưỡi sư tử, với thanh gươm sáng ngời chặt đứt mọi vô minh, và kinh điển phát ra ánh sáng của trí tuệ., và để âm thanh “Dhi” (hoặc “Dhih”) cộng hưởng, giúp khai mở trí tuệ.
  • Dù phát âm “Tsa” hay “Ca”, trọng tâm vẫn là giữ tâm thanh tịnh và hướng về trí tuệ siêu việt.
  • Ứng dụng trong học tập: Chú này còn được nhiều người niệm để cải thiện khả năng học hỏi, ghi nhớ, và sáng suốt trong suy nghĩ.

Cả hai phiên bản đều có giá trị và mang lại công đức lớn. Người tu tập có thể chọn cách phát âm nào phù hợp hoặc theo truyền thống mình được truyền thừa

Thần chú Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát

Đây là câu thần chú giúp tăng trưởng trí tuệ của Văn Thù Bồ Tát, còn gọi là Tâm Chú của Văn Thù Bồ Tát.

  • Tâm chú của Văn Thù (Chữ Hán): 唵 阿 諾 巴 扎 那 帝
  • Chú phiên âm tiếng Tạng: ōng ā rā, bā zhā nà dǐ
  • Chú phiên âm tiếng Phạn: Om Ara Pa Ca Na Dhih
  • Chú phiên âm tiếng Tạng: Om Ara Pa Za Na Di

Giải nghĩa Tâm Chú của Văn Thù Bồ Tát

  1. 唵 (Om): Là âm thanh biểu thị sự quy y và kết nối với chư Phật, mở đầu cho nhiều câu thần chú.
  2. 阿喇 (A Ja): Tượng trưng cho trí tuệ tánh Không, vốn không sinh, không diệt, thanh tịnh và không bị nhiễm ô.
  3. 巴札 (Va Ja): Biểu thị sự bình đẳng của các pháp trong tánh Không, vượt lên trên tất cả các khái niệm đối đãi.
  4. 納德 (Na Di): Biểu thị rằng tất cả các pháp đều không thể nắm bắt, vì chúng vốn không có tự tánh.

Câu chú này không chỉ nhằm tăng trưởng trí tuệ mà còn giúp hành giả thấu hiểu tánh Không và vượt qua mọi phiền não, đạt đến sự thanh tịnh và giải thoát hoàn toàn.

Download Thần Chú Văn Sư Lợi Bồ Tát PDF : https://drive.google.com/file/d/1C3wmY2qgz2JBlW9NUEUxYZ3xo_eveVhA/view?usp=sharing


Xem thêm bài viết liên quan:

0/5 (0 Reviews)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *