33 ứng thân của Quán Âm Bồ Tát gồm những vị nào ? Mỗi pháp tướng mang ý nghĩa gì ?

Dương Liễu Quán Âm

Quán Thế Âm Bồ Tát, là vị Bồ Tát lấy từ bi cứu độ chúng sinh làm bổn nguyện. Ngài còn được gọi là Quang Thế Âm Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, hay Quán Thế Tự Tại Bồ Tát, và thường được gọi ngắn gọn là Quán Âm Bồ Tát. Cùng với Đại Thế Chí Bồ Tát, Ngài đứng bên cạnh Đức Phật A Di Đà trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tạo thành Tây Phương Tam Thánh. Khi chúng sinh gặp nạn và xưng danh hiệu Ngài, Bồ Tát liền nghe tiếng cầu cứu và đến để cứu độ, do đó được gọi là Quán Thế Âm Bồ Tát. Vì có khả năng quán chiếu và đạt đến tự tại trong mọi sự, Ngài còn được gọi là Quán Tự Tại Bồ Tát.

Phẩm Phổ Môn trong quyển thứ bảy của Kinh Pháp Hoa giải thích chi tiết về những hành động cứu độ chúng sinh trong cõi Ta Bà của Quán Thế Âm Bồ Tát. Khi chúng sinh đang chịu khổ đau mà xưng danh Ngài một lòng, Ngài liền nghe âm thanh ấy và khiến họ được giải thoát; nếu có điều gì mong cầu, Ngài cũng đều giúp cho toại nguyện. Ngài có thể hiện thân dưới hình tướng Phật, hình tướng Tỳ kheo, Ưu bà tắc, hoặc hình tướng trời, để thu nhiếp và hóa độ chúng sinh.

Về hình tượng của Quán Thế Âm Bồ Tát, vì Ngài ứng hóa tự tại không giới hạn, nên hình tướng cũng rất đa dạng. Hình tướng gốc của Ngài là Bồ Tát hai tay (chính Quán Âm), còn các hình khác là biểu thị năng lực tự tại biến hóa thần thông của Ngài, có thể có một đầu, ba đầu, năm đầu, cho đến hàng nghìn, vạn đầu hay tám mươi bốn ngàn đầu. Ngài có thể có hai tay, bốn tay, cho đến hàng vạn hay tám mươi bốn ngàn tay; mắt có thể hai, ba, cho đến tám mươi bốn ngàn mắt thanh tịnh như bảo châu. Các hình tượng khác của Ngài gồm Thiên Thủ Thiên Nhãn (Ngàn Tay Ngàn Mắt), Thập Nhất Diện (Mười Một Mặt), và Chuẩn Đề.

Ba Mươi Ba Hóa Thân: 33 hình tướng ứng hóa của Quán Thế Âm Bồ Tát được ghi chép trong Phẩm Phổ Môn, quyển thứ bảy của Kinh Pháp Hoa, bao gồm:

  1. Dương Liễu Quán Âm – Hóa thân Phật.
  2. Long Đầu Quán Âm – Hóa thân Bích Chi Phật (cũng có thuyết nói là hóa thân Rồng hoặc Thiên Long).
  3. Trì Kinh Quán Âm – Hóa thân Thanh Văn.
  4. Viên Quang Quán Âm – Hóa thân Phạm Vương.
  5. Du Hí Quán Âm – Hóa thân Đế Thích.
  6. Bạch Y Quán Âm – Hóa thân Tự Tại Thiên (cũng có thuyết nói là hóa thân Tỳ kheo hoặc Tỳ kheo ni).
  7. Liên Ngọa Quán Âm – Hóa thân Thiên Đại Tướng Quân (cũng có thuyết nói là hóa thân Tiểu Vương).
  8. Long Kiến Quán Âm – Hóa thân Đại Tự Tại Thiên.
  9. Thi Dược Quán Âm – Hóa thân Tỳ Sa Môn.
  10. Ngư Lam Quán Âm – Hóa thân Tiểu Vương.
  11. Đức Vương Quán Âm – Hóa thân Trưởng Giả (cũng có thuyết nói là hóa thân Phạm Vương).
  12. Thủy Nguyệt Quán Âm – Hóa thân Cư Sĩ (cũng có thuyết nói là hóa thân Bích Chi Phật).
  13. Nhất Diệp Quán Âm – Hóa thân Quan Lại.
  14. Thanh Cảnh Quán Âm – Hóa thân Bà La Môn (cũng có thuyết nói là hóa thân Phật).
  15. Uy Đức Quán Âm – Hóa thân Tỳ Kheo (cũng có thuyết nói là hóa thân Thiên Đại Tướng Quân).
  16. Diên Mệnh Quán Âm – Hóa thân Tỳ Kheo Ni.
  17. Chúng Bảo Quán Âm – Hóa thân Ưu Bà Tắc (cũng có thuyết nói là hóa thân Trưởng Giả).
  18. Nham Hộ Quán Âm – Hóa thân Ưu Bà Di.
  19. Năng Tĩnh Quán Âm – Hóa thân Trưởng Giả Phụ Nữ.
  20. A Nậu Quán Âm – Hóa thân Cư Sĩ Phụ Nữ.
  21. A Ma Đề Quán Âm – Hóa thân Quan Lại Phụ Nữ (cũng có thuyết nói là hóa thân Tỳ Sa Môn).
  22. Diệp Y Quán Âm – Hóa thân Bà La Môn Phụ Nữ (cũng có thuyết nói là hóa thân Đế Thích).
  23. Lưu Ly Quán Âm – Hóa thân Đồng Nam (cũng có thuyết nói là hóa thân Tự Tại Thiên).
  24. Đa La Tôn Quán Âm – Hóa thân Đồng Nữ.
  25. Cáp Lị Quán Âm – Hóa thân Trời (cũng có thuyết nói là hóa thân Bồ Tát).
  26. Lục Thời Quán Âm – Hóa thân Rồng (cũng có thuyết nói là hóa thân Cư Sĩ).
  27. Phổ Bi Quán Âm – Hóa thân Dạ Xoa (cũng có thuyết nói là hóa thân Đại Tự Tại Thiên).
  28. Mã Lang Phụ Quán Âm – Hóa thân Càn Thát Bà (cũng có thuyết nói là hóa thân Phụ Nữ).
  29. Hợp Chưởng Quán Âm – Hóa thân A Tu La (cũng có thuyết nói là hóa thân Bà La Môn).
  30. Nhất Như Quán Âm – Hóa thân Ca Lâu La.
  31. Bất Nhị Quán Âm – Hóa thân Khẩn Na La (cũng có thuyết nói là hóa thân Chấp Kim Cang Thần).
  32. Trì Liên Quán Âm – Hóa thân Ma Hầu La Già (cũng có thuyết nói là hóa thân Đồng Nam, Đồng Nữ).
  33. Sái Thủy Quán Âm – Hóa thân Chấp Kim Cang Thần.

33 ứng hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát

“Ba mươi ba Quán Âm” là thuật ngữ chỉ 33 hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, được Ngài thị hiện để cứu độ chúng sinh. Các hóa thân này còn được gọi là “Ba mươi ba thể Quán Âm.”

Dương Liễu Quán Âm
Dương Liễu Quán Âm – Hóa thân Phật

01 DƯƠNG LIỄU QUÁN ÂM – Hóa thân Phật

Dương Liễu Quán Âm, còn được gọi là Quán Âm Liễu Diệp hoặc Thánh Quán Âm, là vị đứng đầu trong ba mươi ba hóa thân của Quán Âm. “Ứng thân” của Ngài là Quán Âm Dương Liễu, còn “hóa thân” chính là “Phật thân”! Trong kinh có câu: “Nếu cần hiện thân Phật để cứu độ chúng sanh, Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật và thuyết pháp cho họ.”

Đặc điểm của “ứng thân” Quán Âm Dương Liễu là tay cầm nhánh dương liễu, có năng lực chữa lành bệnh tật, xoa dịu khổ đau của chúng sanh, vì vậy Ngài còn được gọi là Dược Vương Quán Âm. Ở Ấn Độ cổ đại, người ta tin rằng cành dương liễu có thể trừ tà, chữa lành bệnh tật và chữa khỏi các căn bệnh khó trị. Trong Kinh Thiên Quang Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp có viết: “Nếu muốn tiêu trừ bệnh tật trong thân, hãy thực hành pháp dương liễu, chiêm ngưỡng hình tượng Dược Vương Quán Tự Tại với tướng mạo trang nghiêm.”.

Ý nghĩa Quán Âm Dương Liễu:

Tay phải cầm nhánh dương liễu, tay trái cầm tịnh bình, an tọa trên vách đá. Truyền thuyết kể rằng, khi phong tục của Trung Châu trở nên suy đồi, trời đất căm giận, dẫn đến đại hạn khắp nơi. Quán Âm đã xuất hiện để khai hóa chúng sanh, hiện chân thân, dùng cành dương liễu trong tịnh bình ngọc thấm cam lộ, rải khắp bốn phương. Lập tức trời đổ mưa lớn, giải trừ hạn hán. Vì vậy, Quán Âm Dương Liễu tượng trưng cho sự tha thứ và lòng từ bi.

Trong Kinh Thần Chú Tiêu Phục Độc Hại của Quán Thế Âm Bồ Tát, có ghi chép rằng Đức Phật đã giới thiệu về Tây Phương Tam Thánh trước hàng nghìn Tỳ-kheo và Bồ Tát. Khi nhắc đến Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài từng nói: “Người thành Tỳ Xá Ly đã chuẩn bị cành dương liễu và nước tịnh, dâng lên Quán Thế Âm Bồ Tát.”

Cành dương liễu (hay còn gọi là dương chi) ở Ấn Độ cổ đại được sử dụng làm cành gỗ chải răng, và trong các buổi yến tiệc ở Ấn Độ hoặc Tây Vực, người ta thường tặng cành dương liễu và nước thơm để thể hiện sự kính trọng, mời gọi. Vì vậy, trong Phật giáo, khi thỉnh Phật hoặc Bồ Tát, người ta cũng dùng cành dương liễu và nước tịnh để biểu đạt lòng thành kính.

Quán Thế Âm Bồ Tát cứu độ chúng sinh với lòng từ bi, tùy duyên tự tại, giống như cành dương liễu mềm mại uốn lượn theo gió. Hình tượng đức hạnh của Ngài, biểu hiện qua đức tính nhẫn nhục, hòa ái, kết hợp với sự nhẹ nhàng, uyển chuyển của cành dương liễu, chính là đặc trưng nổi bật của hình tượng Quan Âm Dương Liễu.

Long Đầu Quán Âm
Long Đầu Quán Âm -Hóa thân Bích Chi Phật (cũng có thuyết nói là hóa thân Rồng hoặc Thiên Long)

02 LONG ĐẦU QUÁN ÂM – Hóa thân Bích Chi Phật (cũng có thuyết nói là hóa thân Rồng hoặc Thiên Long)

Quan Âm Long Đầu, còn gọi là Quan Âm Cưỡi Rồng, là vị đứng thứ hai trong ba mươi ba hóa thân của Quan Âm. “Ứng thân” của Ngài là Quan Âm Long Đầu; còn “hóa thân” chính là “Thân Phật Duyên Giác”! Trong phẩm Phổ Môn của Kinh Pháp Hoa có câu: “Nếu cần hiện thân Phật Duyên Giác để cứu độ, Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật Duyên Giác để thuyết pháp.”

Đặc điểm “ứng thân” của Quan Âm Long Đầu là cưỡi trên đầu một con rồng. Tuy nhiên, cũng có một cách giải thích khác cho rằng “hóa thân” của Ngài là thân rồng hoặc thân thiên long.

Ý nghĩa Quan Âm Long Đầu:

Pháp lực của Quán Thế Âm Bồ Tát là vô biên, hình tượng Ngài đứng trên đầu rồng quái vật tượng trưng cho việc tiêu trừ tai họa, bảo vệ chúng sinh, giúp người dân có cuộc sống an lành và thịnh vượng.

Rồng được xem là vua của các loài thú, biểu tượng cho sức mạnh và oai lực của Quán Âm. Theo Kinh Chính Pháp Niệm Xứ, quyển 18, phẩm Súc Sinh, loài rồng thuộc về cõi súc sinh. Chúng là quả báo mà những người si mê và sân hận phải nhận chịu. Nơi cư trú của rồng được gọi là Thành Hí Lạc. Rồng được chia thành hai loại: Rồng hành phápRồng không hành pháp.

  • Rồng hành pháp gồm các rồng như Tượng Diện, Bà Tu Kích, Đắc Xoa Già, Bạt Đà La,… Đây là những rồng có tâm sân hận nhẹ, nhớ nghĩ đến phước đức, thuận theo pháp hành. Vì vậy, chúng không chịu cảnh khổ của cát nóng và dùng thiện tâm tạo mưa đúng thời, giúp ngũ cốc trên thế gian được chín muồi. Đây được gọi là “thiện long”.
  • Rồng không hành pháp gồm các rồng như Ba La Ma Đề, Tỳ Mưu Lâm Bà, Ca La,… Đây là những rồng không thuận theo pháp hành, làm các điều bất thiện, không kính trọng Sa-môn và Bà-la-môn. Vì vậy, chúng thường chịu cảnh khổ của cát nóng và dùng ác tâm tạo ra mưa gió độc, làm ngũ cốc trên thế gian bị hư hại. Đây là những rồng mà dân gian gọi là “ác long” hoặc “độc long”.

Ngoài ra, có một quan điểm khác cho rằng rồng là một trong Tứ Linh (Long, Lân, Quy, Phụng), mang sức mạnh thần thông và khả năng biến hóa kỳ diệu. Từ xa xưa, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều đặc biệt tôn kính loài rồng. Trong Luận Đại Trí Độ, quyển 3, có lời khen ngợi thần rồng: “Đại Long Vương từ biển cả đến, tạo mây lớn, bao phủ khắp hư không, phóng ánh sáng chói lòa, làm mưa lớn đổ xuống, tưới tẩm muôn vật.” Trong thần thoại Ấn Độ, tám Đại Long Vương nghe Đức Phật thuyết pháp và trở thành những vị hộ pháp bên ngoài cho Phật giáo. Điều này là nguồn gốc của hình tượng Quán Âm Long Đầu.

Trong Kinh Pháp Hoa – Phẩm Phổ Môn, có câu: “Nếu cần hiện thân trời, rồng, dạ xoa để cứu độ, Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân đồng dạng để thuyết pháp.” Tuy nhiên, hình tượng Quán Âm Long Đầu được đề cập ở đây chính là hóa thân Phật Duyên Giác, không phải thân rồng.

Rồng là vua của muôn thú, Quán Âm cưỡi trên đầu rồng giữa mây, tượng trưng cho thần uy của Ngài. Ở Bhutan, quốc gia phía bắc Ấn Độ, rồng được chọn làm biểu tượng quốc gia và được gọi là “Quốc gia Thiên Long”. Phổ Đà Sơn – đạo tràng của Quán Thế Âm Bồ Tát – nằm giữa biển Nam Hải. Theo truyền thuyết Trung Quốc, biển là lãnh thổ của Long Vương. Rồng có khả năng lấy nước từ biển đưa lên trời, tạo ra mưa ngọt lành cho thế gian. Hình tượng Quan Âm đứng trên đầu rồng thể hiện ý nghĩa cầu mong gió hòa mưa thuận, quốc thái dân an.

Trì Kinh Quán Âm
Trì Kinh Quán Âm – Hóa thân Thanh Văn.

03 TRÌ KINH QUÁN ÂM – Hóa thân Thanh Văn.

Trì Kinh Quán Âm, còn gọi là Độc Kinh Quán Âm, xếp thứ ba trong ba mươi ba hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. “Ứng thân tướng” của Ngài là Trì Kinh Quán Âm; còn “Hóa thân tướng” là thân Thanh Văn, do đó, Trì Kinh Quán Âm còn được gọi là Thanh Văn Quán Âm.

Trong Phẩm Phổ Môn có nói: “Nếu cần hiện thân Thanh Văn để cứu độ, Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Thanh Văn để thuyết pháp.” “Thanh Văn” chỉ những người nghe được giáo pháp của Phật, ngộ ra chân lý của Tứ Diệu Đế, đoạn trừ phiền não trong Tam Giới, và đạt đến Niết Bàn. Kinh điển cũng là biểu tượng của trí tuệ, vì vậy, hình tượng của Quán Âm này được đặt tên là Trì Kinh Quán Âm do tay cầm hoặc đang đọc kinh sách.

Đặc điểm ứng thân của Ngài là cầm kinh sách hoặc ngồi yên trên tảng đá để đọc kinh.

Ý nghĩa của Trì Kinh Quán Âm:

Tương truyền, Trì Kinh Quán Âm gắn liền với câu chuyện cuối thời nhà Đường, khi Tiền Lỗ khởi binh lập quốc để bảo vệ dân chúng. Hình tượng này mang ý nghĩa tấm lòng bao dung với thế gian và cầu mong mọi việc như ý nguyện.

Trì Kinh Quán Âm là một hóa thân gắn liền với câu chuyện vào cuối thời nhà Đường, khi chiến tranh loạn lạc khắp nơi, khiến dân chúng khu vực Tô Châu và Hàng Châu hoảng loạn, không nơi nương tựa. Tiền Lưu, người huyện Lâm An, là người chính trực và nhân hậu. Chứng kiến cảnh loạn lạc, ông nảy sinh ý định khởi binh bảo vệ vùng Đông Nam, nhưng lại thiếu lương thực và vũ khí, đồng thời lo ngại bị buộc tội tạo phản. Tâm trạng bối rối khiến ông chần chừ không quyết định.

Một đêm nọ, Tiền Lưu mơ thấy Quán Thế Âm Bồ Tát hiện ra nói với ông:
“Tiền Lưu, con chớ nên do dự. Nếu con thật lòng muốn bảo vệ Đông Nam và cứu dân khỏi cảnh lầm than, thì đây chính là một thiện niệm đáng quý. Thiện nhân được trời phù hộ, con nhất định sẽ bách chiến bách thắng.”

Trong giấc mơ, Tiền Lưu bày tỏ nỗi lo lắng của mình với Bồ Tát. Ngài đáp:
“Con không cần lo ngại hay sợ hãi. Làm người cần phải có ‘ngàn tay ngàn mắt’ thì mới hoàn thành đại nghiệp ngàn năm. Con hãy yên tâm hành động, bởi sinh mệnh của vô số chúng sinh ở Đông Nam đang phụ thuộc vào con. Sau khi khởi binh thành công, ta mong con quy y Phật pháp, giữ lòng từ bi, và làm lợi ích cho nhiều chúng sinh hơn. Nếu con có thể thực hiện được, hãy đến Thiên Trúc Sơn tìm ta sau hai mươi năm.”

Tiền Lưu tỉnh dậy, tràn đầy niềm tin, nhanh chóng tổ chức một đội quân mạnh mẽ, đánh đâu thắng đó, bảo vệ vững chắc nửa vùng Đông Nam, giúp dân chúng an cư lạc nghiệp. Sau này, ông từ Thái thú Tô Châu được phong làm Ngô Việt Vương.

Hai mươi năm sau, Tiền Lưu giữ lời hẹn, lên Thiên Trúc Sơn tìm Bồ Tát. Trên đường, ông gặp một vị tăng đang ngồi trên tảng đá, tay cầm kinh sách đọc. Nghĩ rằng đó là Bồ Tát hóa thân, Tiền Lưu liền quỳ xuống đảnh lễ, kể lại nguyên nhân. Nhà sư vội vàng đặt kinh xuống, nâng Tiền Lưu dậy, đáp:
“Đại vương, ta không phải là Bồ Tát. Ta là một tăng nhân tên Nhất Không. Hôm qua khi đi qua ngọn núi này, ta gặp Bồ Tát ngồi trên tảng đá trắng, tay cầm kinh đọc. Ta cúi lạy Ngài, và Ngài dặn ta chờ ở đây để truyền lời lại với Đại vương: ‘Đại vương đã thành công và được dân chúng kính yêu. Nếu có thể dùng uy đức của mình để hoằng dương Phật pháp, hiệu quả sẽ rất lớn. Hãy tích thêm nhiều công đức ở phương diện này.’”

Nhất Không nói thêm:
“Bồ Tát bảo rằng hiện tại chưa phải lúc Đại vương quy y. Khi duyên đến, Ngài sẽ tự đến để hóa độ cho Đại vương.”

Nghe vậy, Tiền Lưu cảm tạ ân đức và lời chỉ dạy của Bồ Tát. Ông phát nguyện xây dựng một am thờ trên ngọn núi này, mời Nhất Không trụ trì. Vài tháng sau, Phật am được hoàn thành. Trong am, tạc một tượng Quán Âm ngồi đọc kinh trang nghiêm, được gọi là Trì Kinh Quán Âm hoặc Độc Kinh Quán Âm. Tượng được đặt trên một tòa sen bằng đá, được cho là tảng đá trắng mà Bồ Tát từng ngồi.

Ý nghĩa và sự phát triển của Trì Kinh Quán Âm

Trong thời Ngũ Đại Thập Quốc, Tiền Lưu đã khởi xướng phong trào Phật giáo mạnh mẽ. Tượng Quán Âm đọc kinh cũng ra đời từ bối cảnh này, do một vị tăng liên tưởng đến câu chuyện Tiền Lưu và Bồ Tát. Ban đầu, tượng mang dáng vẻ ngồi đọc kinh, nhưng qua thời gian, hình tượng này đã thay đổi. Hiện nay, Trì Kinh Quán Âm thường được khắc họa ở tư thế đứng hoặc ngồi, tay cầm hoặc nâng một cuốn kinh, còn tư thế đọc kinh như xưa thì hiếm gặp.

Một số người cho rằng trong thời Đường, tượng Quán Âm thường mang dáng vẻ nam giới, với râu và đầu đội khăn, nhưng qua thời gian, tượng chuyển sang hình tượng nữ giới quen thuộc ngày nay. Kinh điển lúc bấy giờ cũng chưa phải dạng giấy như hiện tại, mà có thể được làm từ vải hoặc tre nứa. Vì vậy, hình tượng Trì Kinh Quán Âm đôi khi được thể hiện đang đọc một cuộn kinh làm từ tre.

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.

Viên Quang Quán Âm
Viên Quang Quán Âm – Hóa thân Phạm Vương.

04 VIÊN QUANG QUÁN ÂM – Hóa thân Phạm Vương

Viên Quang Quán Âm đứng thứ tư trong số 33 hóa thân của Quán Âm. Hình tướng “ứng thân” là Viên Quang Quán Âm, còn “hóa thân” chính là thân Phạm Vương.

Trong Phổ Môn Phẩm có viết:
“Nếu chúng sinh cần được độ thoát bằng thân Phạm Vương, Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ hiện thân Phạm Vương để thuyết pháp.”

Viên Quang Quán Âm có hình tướng đặc trưng là phía sau lưng có vòng hào quang rực rỡ như ngọn lửa, từ đó mà có tên gọi này.

Ý nghĩa của Viên Quang Quán Âm:

Hình tướng này được đặc trưng bởi vòng hào quang phía sau lưng tỏa sáng rực rỡ như ngọn lửa, tượng trưng cho sự tỏa sáng vô hạn, mạnh mẽ và vững chãi, phản ánh tính cách kiên định và điềm tĩnh.

Hình tướng Viên Quang Quán Âm có rất nhiều phiên bản khác nhau, xuất phát từ các kinh điển khác nhau, vì vậy mô tả hình tướng cũng có sự khác biệt. Hai hình tướng phổ biến nhất là:

  1. Hình tướng đầu tiên là Quán Âm ngồi an tọa trên tòa sen hoặc trên đá, đôi khi hai tay cầm chuỗi hạt và kết ấn hợp chưởng. Trong Phổ Môn Phẩm của Pháp Hoa Kinh có đoạn viết:
    “Hoặc gặp nạn khổ vì vua, sắp bị hành hình, khi nghĩ đến Quán Âm, nhờ sức lực của Ngài, dao sẽ gãy từng khúc.”
    Đây là biểu tượng của lòng từ bi trọn vẹn, ánh sáng huy hoàng của Quán Âm. Câu kinh trong Phổ Môn Phẩm có đoạn: “Ánh sáng trong sáng không vết, ánh sáng trí tuệ phá tan bóng tối, có thể dập tắt bão tố và lửa cháy, chiếu sáng khắp thế gian,” chính là hình tướng này của Quán Âm.
  2. Hình tướng thứ hai xuất phát từ Vô Lượng Thọ Kinh: “Thân cao tám mươi tỷ Na Đề, thân hình màu vàng tím, trên đầu có búi tóc, và có hào quang viên sáng.” Hình tướng này là Quán Âm đứng trên tòa sen, tay trái kết ấn “không sợ hãi”, tay phải kết ấn “nguyện”, và phía sau có hào quang rực cháy.

“Ánh sáng trong sáng không vết” chính là ánh sáng trí tuệ, chiếu sáng thế giới này, xua tan mọi bóng tối trong thế gian. Bản tính chân thật của chúng sinh như một chiếc gương sáng, chỉ vì vọng niệm mà khiến chiếc gương đó bị mờ, phải nhờ vào ánh sáng trí tuệ thanh tịnh của Quán Âm để biến mê thành ngộ, từ bóng tối trở về ánh sáng.

Một cách giải thích khác về Viên Quang Quán Âm: “Có thể dập tắt gió lửa” trong câu có chữ (tai) là chỉ những khổ đau mà chúng sinh phải chịu đựng, gió và lửa là biểu thị cho những cơn gió vô minh và ngọn lửa phiền não trong tâm. Những tai nạn bên ngoài mà chúng sinh gặp phải đều bắt nguồn từ những phiền não bên trong, khiến thân, khẩu, ý tạo ra các nghiệp ác. Ánh sáng trí tuệ của Quán Âm có thể chiếu sáng phá tan những phiền não của chúng sinh, xóa bỏ những bụi bặm trong tâm và đau khổ bên trong, do đó, những tai họa bên ngoài cũng sẽ không còn tồn tại. Hình tướng của Viên Quang Quán Âm chính là hình tướng được thể hiện trong các kinh điển Phật giáo.

Du Hí Quán Âm
Du Hí Quán Âm – Hóa thân Đế Thích.

05 DU HÍ QUÁN ÂM- Hóa thân Đế Thích.

“Du Hí Quan Âm” trong ba mươi ba hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát được xếp ở vị trí thứ năm. “Ứng thân tướng” chính là Du Hí Quan Âm; “Hóa thân tướng” là Đế Thích Thân. Trong Phẩm Phổ Môn, kinh chép rằng: “Nếu cần lấy thân Đế Thích để độ thoát, Quan Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Đế Thích mà thuyết pháp.”

Quan Thế Âm Bồ Tát giáo hóa với trí tuệ viên thông vô ngại, không bị ràng buộc bởi thời gian hay không gian, thể hiện sự tự tại, tự do trong hành động. Vì vậy, được gọi là Du Hí Quan Âm. Trong Phẩm Phổ Môn, kinh cũng ghi:
“Nếu bị ác nhân truy đuổi, rơi xuống núi Kim Cương, niệm lực Quan Âm có thể bảo vệ, khiến không bị tổn hại dù chỉ một sợi lông.”

Ý nghĩa của Du Hí Quan Âm:

Du Hí Quan Âm nhắc nhở chúng sinh rằng thiện ác đều có nhân quả; mọi phước lành hay họa hoạn dù nhỏ đến đâu cũng không sai lệch. Hiện nay, hình tượng Du Hí Quan Âm thường được dùng để khuyến nhắc chúng sinh tự tỉnh thức và cảnh giác với chính mình.

Tên gọi Du Hí Quan Âm xuất phát từ hình tượng Ngài ngồi trên mây trong tư thế du hí. Tư thế ngồi du hí còn được gọi là an dật tọa , là một tư thế ngồi tự tại, thoải mái hơn so với thế ngồi kiết già trong Phật giáo. Hình tượng Du Hí Quan Âm ngồi trên mây ngũ sắc, chu du khắp thế gian, cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sinh. Trong Pháp Hoa Kinh – Phẩm Phổ Môn, có ghi rằng:
“Nếu ai rơi từ nơi cao, nhờ oai lực của Bồ Tát mà không tổn thương da thịt, đó chính là pháp lực tự tại của Du Hí Bồ Tát.”
Kinh còn nói: “Quan Thế Âm Bồ Tát có oai lực tự tại như vậy, du hành khắp thế giới Ta Bà.”

Kinh Phật cho rằng việc chư Phật và Bồ Tát cứu độ chúng sinh là một việc dễ dàng, vui vẻ, giống như đang du hí. Vì vậy, sự chuyên tâm cứu độ chúng sinh được gọi là Du Hí Tam Muội. Ý nghĩa “du hí” này không mang tính chất vui chơi thông thường mà chỉ sự tự tại, vô ngại trong hành động, luôn giữ tâm định tĩnh, nên được gọi là Du Hí Tam Muội.

Bạch Y Quán Âm - Hóa thân Tự Tại Thiên
Bạch Y Quán Âm – Hóa thân Tự Tại Thiên

06 BẠCH Y QUÁN ÂM – Hóa thân Tự Tại Thiên

Bạch Y Quan Âm trong ba mươi ba hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát được xếp ở vị trí thứ sáu. “Ứng thân tướng” chính là Bạch Y Quan Âm, còn “Hóa thân tướng”thân Tỳ-kheo hoặc thân Tỳ-kheo-ni. Trong Phẩm Phổ Môn, kinh chép:
“Nếu cần lấy thân Tỳ-kheo hoặc thân Tỳ-kheo-ni để độ thoát, Quan Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Tỳ-kheo hoặc Tỳ-kheo-ni mà thuyết pháp.”
Tuy nhiên, cũng có thuyết cho rằng “Hóa thân tướng” của Ngài là thân Tự Tại Thiên.

Ý nghĩa của Bạch Y Quan Âm:

Quan Âm mặc áo trắng, hiện thân giữa đài sen trắng, tượng trưng cho sự siêu độ về cõi Cực Lạc và lòng từ bi thanh tịnh, hướng đến giác ngộ Bồ-đề.

“Quan Âm Bạch Y” đứng thứ sáu trong ba mươi ba hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát. “Ứng thân” của Ngài chính là hóa thân “Bạch Y Quan Âm” mang hình dáng của một Tỳ Kheo. Kinh Phổ Môn có viết: “Nếu chúng sinh cần phải dùng thân Tỳ Kheo để được độ thoát, Quan Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Tỳ Kheo để thuyết pháp.”

Danh xưng Bạch Y Quan Âm trong tiếng Phạn là Paravsin, tiếng Tây Tạng gọi là Gos-dkar-mo, âm Hán Việt dịch là “Bạn Đà La Phược Tự Ni”, “Bán Na La Tất Ninh”, hay “Bá Na Phược Tất Ni”. Ý nghĩa của các danh hiệu này là “nơi trắng”, “chốn trắng”, hoặc “thường mặc áo trắng, ngồi trong hoa sen trắng”. Màu trắng là nguồn gốc của các sắc màu, biểu tượng cho sự viên mãn của vạn đức. Đồng thời, màu trắng cũng biểu hiện tâm Bồ Đề thanh tịnh, ý nghĩa là sống trong tâm Bồ Đề trắng sạch, vì thế Ngài còn được gọi là Đại Bạch Y Quan Âm, Bạch Xứ Tôn Bồ Tát, hay Bạch Y Quan Tự Tại.

Tượng Quan Âm Bạch Y thường xuất hiện trong hình dáng mặc áo trắng, gương mặt từ bi. Màu trắng tượng trưng cho sự trong sạch, không nhiễm ô, như câu “xuất ô nhiễm nhi bất nhiễm” (sống giữa bùn nhơ mà không bị ô nhiễm), nhằm thể hiện tâm Bồ Đề thanh tịnh. Quan Âm Bồ Tát hóa thân theo căn cơ của chúng sinh, như câu: “Hiện ra đủ loại hình tướng, thuyết đủ loại thần chú; dùng hình tướng và thần chú để cứu độ chúng sinh, tất cả đều ban bố sự vô úy cho mọi người.”

Hình tượng Quan Âm rất phong phú và đa dạng, nhưng thường thấy nhất là hình dáng nữ nhân, tay cầm nhành dương liễu hoặc tịnh bình, hoặc hoa sen, mặc áo trắng. Những hình tượng này phần lớn chịu ảnh hưởng từ tạo hình của Bạch Y Quan Âm.

Trong các kinh điển, Bạch Y Quan Âm thường được mô tả với áo trắng, ngồi hoặc đứng trên đài sen trắng. Trong kinh Quan Thế Âm Hiện Thân Chủng Chủng Nguyện Trừ Nhất Thiết Đà La Ni, Bạch Y Quan Âm được ghi nhận cầm một đóa sen, đứng trên hoa sen trắng.

Sau khi niềm tin vào Quan Âm được Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian tiếp nhận, pháp tướng Quan Âm có rất nhiều biến hóa. Đặc biệt, Bạch Y Quan Âm rất được người Trung Quốc, Việt Nam yêu mến, và thường trở thành đề tài sáng tác của các nghệ nhân. Trong các hình tượng Quan Âm hiện nay, dù mang danh xưng nào, hầu hết đều lấy hình dáng mặc áo trắng làm chủ đạo. Điều này khiến nhiều người không còn quan tâm đến việc hình tượng ấy có dựa trên kinh điển Phật giáo hay không.

Tranh Quan Âm Bạch Y của Ngô Đạo Tử đời Đường

Bức tranh này cho thấy Quan Âm mặc thiên y màu trắng, hiện tướng nam giới, không đội mũ, không cầm pháp khí hay kết ấn. Đáng chú ý, “Hóa Phật” trên đỉnh đầu cũng không xuất hiện. Nếu đây là hóa thân của Quan Âm, thay vì ứng thân, có thể lý giải được phần nào. Nếu không có chú thích, người đời sau khó lòng nhận ra đây là hình tượng Quan Thế Âm.

Tranh Quan Âm Đại Sĩ của Giả Sư Cổ đời Tống

Tác phẩm này vẽ Quan Âm mặc áo trắng nhưng không phải là thiên y trắng của Ấn Độ, mà giống trang phục của phụ nữ quý tộc thời Đường. Gương mặt vẫn mang nét nam giới, không đội mũ, tay cầm tịnh bình, nhưng không có Hóa Phật trên đầu.

Bức tranh này hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Cố Cung Bắc Kinh. “Đại Sĩ” là danh xưng quen thuộc của Đạo giáo, cho thấy vào thời Tống, tín ngưỡng Quan Âm của Phật giáo đã hòa nhập với Đạo giáo. Gương mặt Quan Âm trong tranh mang nét nam giới, tóc xoăn nhẹ nhàng, được vẽ theo lối văn nhân phái của thời Tống, khác với phong cách truyền thống của đời Đường.

Sự thay đổi này phản ánh việc lối vẽ truyền thống của đời Đường đã dần nhường chỗ cho phong cách phóng khoáng của văn nhân thời Tống. Dù vậy, các chi tiết như gương mặt nam tính của Quan Âm vẫn giữ được sự trung thành với lịch sử và kinh điển Phật giáo.

Ảnh hưởng của Đạo giáo và dân gian

Khi Quan Âm được Đạo giáo tiếp nhận, pháp tướng của Ngài bắt đầu có những đặc điểm “Hán hóa”. Nhiều hình tượng Quan Âm xuất hiện với dáng nữ nhân, điều này phản ánh khái niệm “từ mẫu hiền hòa” phù hợp với tâm lý người Trung Quốc.

Vào đời Tống, văn học dân gian với các câu chuyện Quan Âm bắt đầu thịnh hành. Những câu chuyện này thường mô tả Quan Âm với hình dáng nữ nhân, làm nền tảng cho niềm tin về Quan Âm nữ tính sau này.

Bạch Y Quan Âm đời Minh tiếp tục khắc sâu hình tượng nữ tính, với gương mặt thanh tú, dáng vẻ mềm mại, trở thành khuôn mẫu cho các hình tượng Quan Âm sau này.

Kết luận, sự chuyển biến từ hình tượng Quan Âm nam tính trong kinh điển Ấn Độ sang hình tượng nữ tính ở Trung Quốc là kết quả của sự hòa quyện giữa Phật giáo và văn hóa bản địa. Quan Âm hóa thân thiên hình vạn trạng, nhưng mục đích cuối cùng vẫn là sử dụng pháp tướng để giáo hóa chúng sinh, mang lại sự an lạc và pháp hỷ.

Liên Ngọa Quán Âm
Liên Ngọa Quán Âm – Hóa Thân Thiện Đại Tướng Quân

07. LIÊN NGỌA QUÁN ÂM – Hóa thân Thiên Đại Tướng Quân

Quán Âm Ngọa Liên đứng vị trí thứ bảy trong ba mươi ba hóa thân của Quán Âm. “Ứng thân tướng” của Quán Âm Ngọa Liên chính là “hóa thân tướng”, được biết đến như “Tiểu Vương Thân” và cũng có tài liệu cho rằng đây là “Thiên Đại Tướng Quân Thân”.

Quán Âm Ngọa Liên còn được gọi là Quán Âm Liên Ngọa, tên gọi này xuất phát từ việc Ngài ngồi hoặc nằm trên đóa hoa sen. Hình tượng nguyên thủy nhất của Quán Âm trong pháp tướng này bắt nguồn từ Bồ Tát Liên Hoa Thủ của Ấn Độ, vì thế hoa sen trở thành một trong những biểu tượng quan trọng của Quán Âm.

Theo các ghi chép, hình tượng của Quán Âm Ngọa Liên thường được mô tả là ngồi ngay ngắn, hai tay chắp lại trên tòa sen. Một số khác cho rằng Ngài cầm chuỗi niệm châu, ngồi trên tòa sen, bên cạnh có một đài sen nhỏ dùng để đặt pháp khí của Ngài, bao gồm cành dương liễu và tịnh bình.

Tuy nhiên, theo các ghi chép, pháp tướng của Quán Âm Ngọa Liên dường như không liên quan đến chữ “Ngọa” (nằm) trong tên gọi

Long Kiến Quán Âm – Hóa thân Đại Tự Tại Thiên.
Long Kiến Quán Âm – Hóa thân Đại Tự Tại Thiên.

8. LONG KIẾN QUÁN ÂM – Hóa thân Đại Tự Tại Thiên.

Quán Âm Long Kiến đứng thứ tám trong ba mươi ba hóa thân của Quán Âm. “Ứng thân tướng” của Quán Âm Long Kiến chính là thân Long Kiến Quán Âm; “hóa thân tướng” được gọi là “Đại Tự Tại Thiên Thân”.

Trong phẩm Phổ Môn, có câu:
“Nếu chúng sinh cần được cứu độ bằng thân Đại Tự Tại Thiên, Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện thân Đại Tự Tại Thiên để thuyết pháp.”

Quán Âm Long Kiến còn được gọi là Quán Âm Phi Bộc (Quán Âm Ngắm Thác), vì Ngài thường được miêu tả ngồi trên vách đá, nhìn ngắm thác nước mà có tên gọi như vậy.

Ý nghĩa của Quán Âm Long Kiến:

Ngài ngồi tựa vào vách đá trên đỉnh núi cao, ngắm dòng suối chảy và thác nước tung bọt trắng xóa. Điều này tượng trưng cho lòng từ bi của Quán Âm, luôn quan tâm đến nỗi khổ của chúng sinh, bảo hộ nhân gian được mùa màng bội thu, gia súc khỏe mạnh, và mọi người được bình an.

Thi Dược Quán Âm – Hóa thân Tỳ Sa Môn
Thi Dược Quán Âm – Hóa thân Tỳ Sa Môn

9. THI DƯỢC QUÁN ÂM – Hóa thân Tỳ Sa Môn.

Quán Âm Thi Dược đứng thứ chín trong ba mươi ba hóa thân của Quán Âm. “Ứng thân tướng” của Ngài là Quán Âm Thi Dược, còn “hóa thân tướng” được gọi là “Tỳ Sa Môn Thân”.

Trong phẩm Phổ Môn có ghi:
“Nếu chúng sinh cần được cứu độ bằng thân Tỳ Sa Môn, Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện thân Tỳ Sa Môn để thuyết pháp.”

Quán Âm Thi Dược là hóa thân của Quán Âm chuyên ban tặng những loại thuốc lành, giúp chữa trị khổ đau về cả thân và tâm cho chúng sinh. Trong phẩm Phổ Môn có bài kệ:
“Quán Thế Âm thanh tịnh thánh, giữa khổ nạn và hiểm họa tử vong, Ngài chính là nơi nương tựa.”

Quán Âm Thi Dược còn được gọi là Quán Âm Thi Lạc. Tên gọi này bắt nguồn từ lòng bi mẫn trước những nỗi khổ của nhân gian, vì muốn cứu độ chúng sinh thoát khỏi đau đớn mà Ngài ban tặng các loại thảo dược trị bệnh.

Ý nghĩa của Quán Âm Thi Dược:

Ngài thường được miêu tả với dáng vẻ tay phải chống má, trầm tư suy nghĩ, tay trái đặt trên đầu gối, nhẹ nhàng cầm một đóa sen. Hình tượng này biểu trưng cho việc Quán Âm luôn quan tâm đến nỗi khổ đau bệnh tật của thế gian, với lòng từ bi giúp chúng sinh thoát khỏi mọi khổ đau và bệnh tật.

Ngư Lam Quán Âm – Hóa thân Tiểu Vương
Ngư Lam Quán Âm – Hóa thân Tiểu Vương

10. NGƯ LAM QUÁN ÂM – Hóa thân Tiểu Vương

Quán Âm Ngư Lam, vị hóa thân thứ mười trong ba mươi ba hóa thân của Quán Âm, đã được thầy Quách đề cập chi tiết trong bài viết “Câu chuyện và sự biến đổi của hình tượng pháp tướng Quán Âm Ngư Lam trong Phật giáo truyền thống Trung Hoa”.

Ý nghĩa của Quán Âm Ngư Lam:

Ngài thường được miêu tả trong hình dáng một người phụ nữ trẻ trong dân gian, tay xách giỏ cá. Hình tượng này biểu trưng cho niềm tin vững chắc và sự kiên trì không ngừng nghỉ.

ĐỨC VƯỢNG QUÁN ÂM – Hóa thân Trưởng Giả
ĐỨC VƯỢNG QUÁN ÂM – Hóa thân Trưởng Giả

11. ĐỨC VƯỢNG QUÁN ÂM – Hóa thân Trưởng Giả

Quán Âm Đức Vương là vị hóa thân thứ mười một trong ba mươi ba hóa thân của Quán Âm. “Ứng thân tướng” của Ngài là Quán Âm Đức Vương, còn “hóa thân tướng” thường được gọi là “Phạm Vương Thân”. Tuy nhiên, cũng có tài liệu ghi nhận “hóa thân tướng” của Ngài là “Trưởng Giả Thân”, nhưng qua việc tra cứu các văn bản, cách nói về “Phạm Vương Thân” được ghi nhận phổ biến hơn. Do đó, tạm thời lấy cách giải thích về Phạm Vương Thân làm chính.

Theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa quyển 7, phẩm Phổ Môn, có câu:
“Nếu chúng sinh cần được độ bằng thân Phạm Vương, Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện thân Phạm Vương để thuyết pháp.”

Phạm Vương là chủ của cõi Sắc Giới, phẩm đức cao quý vượt trội, do đó Ngài được gọi là Đức Vương. Trong các hình tượng phổ biến, Quán Âm Đức Vương được miêu tả ngồi kiết già trên vách đá, tay phải cầm nhành dương liễu, tay trái đặt trước rốn.

Ý nghĩa của Quán Âm Đức Vương:

Hình tượng Quán Âm ngồi trên vách đá, tay phải cầm nhành dương liễu, tay trái đặt trước bụng, biểu thị phẩm đức cao quý của Ngài, nên được gọi là Đức Vương. Ngài tượng trưng cho phúc lộc và mang ý nghĩa bảo hộ chúng sinh được hưởng phúc và lộc vẹn toàn.

THỦY NGUYỆT QUÁN ÂM – Hóa thân Cư Sĩ
THỦY NGUYỆT QUÁN ÂM – Hóa thân Cư Sĩ

12. THỦY NGUYỆT QUÁN ÂM – Hóa thân Cư Sĩ

Quán Âm Thủy Nguyệt là vị hóa thân thứ mười hai trong ba mươi ba hóa thân của Quán Âm. “Ứng thân tướng” của Ngài được gọi là Quán Âm Thủy Nguyệt, còn “hóa thân tướng” thường được miêu tả là Cư Sĩ Thân, tuy nhiên cũng có tài liệu ghi nhận là Bích Chi Phật Thân.

Ý nghĩa của Quán Âm Thủy Nguyệt:

Ngài thường được khắc họa trong hình ảnh chiêm ngưỡng bóng trăng soi dưới nước, biểu trưng cho sự bảo hộ và cầu nguyện chúng sinh luôn được bình an, mãi mãi yên ổn.

Nhất Diệp Quán Âm – Hóa thân Quan Lại.
Nhất Diệp Quán Âm – Hóa thân Quan Lại.

13. NHẤT DIỆP QUÁN ÂM – Hóa thân Quan Lại.

Quán Âm Nhất Diệp là vị hóa thân thứ mười ba trong ba mươi ba hóa thân của Quán Âm. “Ứng thân tướng” của Ngài là Quán Âm Nhất Diệp, còn “hóa thân tướng” được miêu tả là Tể Quan Thân. Trong kinh Phổ Môn, có đoạn:
“Nếu chúng sinh cần được độ bằng thân tể quan, Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân tể quan để thuyết pháp.”

Quán Âm Nhất Diệp còn được gọi là Liên Diệp Quán Âm hoặc Nam Hải Quán Âm. Danh hiệu Liên Diệp Quán Âm xuất phát từ việc Quán Âm Bồ Tát được miêu tả đang cưỡi trên một cánh hoa sen trôi nổi trên mặt nước. Còn danh hiệu Nam Hải Quán Âm bắt nguồn từ câu chuyện về một vị tăng người Nhật tên là Đạo Nguyên. Trong hành trình từ Trung Quốc trở về Nhật Bản, thuyền của ông gặp bão lớn. Lúc đó, Đạo Nguyên đã thành tâm cầu nguyện trên thuyền. Ngay lập tức, ông thấy hình ảnh Đức Đại Bi Quán Âm cưỡi trên một cánh sen trôi giữa biển, khiến sóng gió lập tức lặng yên. Sau khi lên bờ, Đạo Nguyên đã tự tay tạc tượng Quán Âm mà mình đã nhìn thấy và an trí tại chùa Quán Âm ở Nam Hải Phổ Đà Sơn. Từ đó, Ngài được gọi là Nam Hải Quán Âm.

Ý nghĩa của Quán Âm Nhất Diệp:

Hình tượng Ngài cưỡi trên một cánh sen trôi giữa nước biểu trưng cho niềm tin vững chắc và đạo tâm kiên định giữa dòng đời đầy biến động.

UY ĐỨC QUÁN ÂM – Hóa thân Tỳ Kheo
UY ĐỨC QUÁN ÂM – Hóa thân Tỳ Kheo

15. UY ĐỨC QUÁN ÂM – Hóa thân Tỳ Kheo

Quán Âm Uy Đức là hóa thân thứ mười lăm trong ba mươi ba hóa thân của Quán Âm. “Ứng thân tướng” của Ngài là Quán Âm Uy Đức, còn “hóa thân tướng” được miêu tả là Tỳ-kheo Thân, hoặc có nơi nói là Thiên Đại Tướng Quân Thân. Hình tượng này thể hiện sự kết hợp giữa uy lực khuất phụcđức từ bi bảo vệ. Theo kinh Phổ Môn Phẩm, đoạn ghi: “Nếu cần hiện thân Thiên Đại Tướng Quân để cứu độ, Quán Thế Âm liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân để thuyết pháp.” Do vậy, Thiên Đại Tướng Quân với đầy đủ uy đức được gọi là Quán Âm Uy Đức, và đây là một trong ba mươi ba hóa thân của Ngài.

Ý nghĩa của Quán Âm Uy Đức:

Ngài thường được miêu tả ngồi khoanh chân trên vách đá, tay trái cầm hoa sen. Hình tượng này biểu trưng cho khả năng hóa giải nguy nan, loại bỏ chướng ngại, và mang lại sự bình an trên mọi hành trình.

DIÊN MỆNH QUÁN ÂM – Hóa thân Tỳ Kheo Ni.
DIÊN MỆNH QUÁN ÂM – Hóa thân Tỳ Kheo Ni.

16. DIÊN MỆNH QUÁN ÂM – Hóa thân Tỳ Kheo Ni.

Quán Âm Diên Mệnh là hóa thân thứ mười sáu trong ba mươi ba hóa thân của Quán Âm. “Ứng thân tướng” của Ngài là Quán Âm Diên Mệnh, còn “hóa thân tướng” là hình tượng Tỳ-kheo Ni Thân. Theo kinh Phổ Môn Phẩm có ghi: “Nếu cần hiện thân Tỳ-kheo Ni để cứu độ, Quán Thế Âm liền hiện thân Tỳ-kheo Ni để thuyết pháp.” Trong Pháp Hoa Kinh, quyển bảy, phẩm Phổ Môn cũng đề cập: “Nếu có người muốn hại thân bằng lời nguyền rủa hay thuốc độc, chỉ cần niệm danh hiệu Quán Âm, mọi nguy hại ấy sẽ trở lại với chính kẻ gây hại.” Điều này thể hiện nguyện lực hóa thân của Quán Âm nhằm hóa giải lời nguyền và độc hại, từ đó Ngài được gọi là Quán Âm Diên Mệnh.

Ý nghĩa của Quán Âm Diên Mệnh:

Ngài thường được miêu tả ngồi tựa vào một vách đá bên dòng nước, tay phải đỡ cằm, đầu đội bảo quan có tôn tượng Phật A Di Đà. Ngoài ra, Ngài còn cầm nhánh liễu đỏ, tượng trưng cho sự tiêu trừ tai họa, giải trừ khó khăngia tăng tuổi thọ.

Chúng Bảo Quán Âm – Hóa thân Ưu Bà Tắc
Chúng Bảo Quán Âm – Hóa thân Ưu Bà Tắc

17. CHÚNG BẢO QUÁN ÂM – Hóa thân Ưu Bà Tắc

Quán Âm Chúng Bảo là hóa thân thứ mười bảy trong ba mươi ba hóa thân của Quán Âm. “Ứng thân tướng” của Ngài là Quán Âm Chúng Bảo, còn “hóa thân tướng” được thể hiện qua hình tượng Ưu-bà-tắc thân hoặc Trưởng giả thân.

  • Ưu-bà-tắc là thuật ngữ Ấn Độ dùng để chỉ những người cư sĩ tại gia đã thọ Bồ-tát giới.
  • Trưởng giả là những người tuổi cao, đức trọng, giàu có, học rộng, trí tuệ lớn, hoặc có địa vị cao trong xã hội, chẳng hạn như tể tướng hoặc những người có vị trí quan trọng trong quốc gia.

Ý nghĩa của Quán Âm Chúng Bảo:
Ngài thường được mô tả trong tư thế ngồi xếp bằng dưới đất, tay phải đặt xuống đất, tay trái đặt lên đầu gối gập. Tượng trưng cho sự biết đủ và viên mãn, khuyên nhủ chúng sinh giữ tâm an lạc và hài lòng với những gì mình có.

Nham Hộ Quán Âm – Hóa thân Ưu Bà Di.
Nham Hộ Quán Âm – Hóa thân Ưu Bà Di.

18. NHAM HỘ QUÁN ÂM – Hóa thân Ưu Bà Di.

Quán Âm Nham Hộ là hóa thân thứ mười tám trong ba mươi ba hóa thân của Quán Âm. “Ứng thân tướng” của Ngài là Quán Âm Nham Hộ, còn “hóa thân tướng” được thể hiện qua hình tượng Ưu-bà-di thân.

Trong Kinh Phổ Môn, có ghi rằng: “Nếu có người nên được độ bằng thân Ưu-bà-di, Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Ưu-bà-di để thuyết pháp.”

  • Ưu-bà-di là thuật ngữ Ấn Độ dùng để chỉ những nữ cư sĩ tại gia đã thọ Bồ-tát giới, tu hành theo đạo hạnh của Phật pháp.

Ý nghĩa của Quán Âm Nham Hộ:

Ngài thường được mô tả trong tư thế tọa thiền, nhập định trong hang đá. Tượng trưng cho sức mạnh hóa giải tà ma, xua tan các độc hại và ác vật, bảo vệ chúng sinh khỏi mọi điều nguy hại.

NĂNG TĨNH QUÁN ÂM – Hóa thân Trưởng Giả Phụ Nữ.
NĂNG TĨNH QUÁN ÂM – Hóa thân Trưởng Giả Phụ Nữ.

19. NĂNG TĨNH QUÁN ÂM – Hóa thân Trưởng Giả Phụ Nữ.

Quán Âm Năng Tĩnh là hóa thân thứ mười chín trong ba mươi ba hóa thân của Quán Âm. “Ứng thân tướng” của Ngài là Quán Âm Năng Tĩnh, còn “hóa thân tướng” được thể hiện qua hình tượng người phụ nữ trưởng giả.

Trong Kinh Phổ Môn, có ghi rằng: “Nếu có người nên được độ bằng thân phụ nữ trưởng giả, Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân người phụ nữ trưởng giả để thuyết pháp.”

Ý nghĩa của Quán Âm Năng Tĩnh:

Ngài thường được mô tả trong tư thế đứng trên vách đá, nhìn ra biển và suy tư sâu lắng. Biểu tượng này tượng trưng cho trí tuệ tĩnh lặng như biển cả, không bị lay động bởi phiền não, luôn giữ được sự an nhiên, thanh tịnh và bình an..

 A NẬU QUÁN ÂM – Hóa thân Cư Sĩ Phụ Nữ.
A NẬU QUÁN ÂM – Hóa thân Cư Sĩ Phụ Nữ.

20. A NẬU QUÁN ÂM – Hóa thân Cư Sĩ Phụ Nữ.

Quán Âm A Nậu là hóa thân thứ hai mươi trong ba mươi ba hóa thân của Quán Âm. “Ứng thân tướng” của Ngài là Quán Âm A Nậu, còn “hóa thân tướng” được thể hiện qua hình tượng người phụ nữ cư sĩ.

Trong Kinh Phổ Môn, có ghi rằng: “Nếu có người nên được độ bằng thân cư sĩ phụ nữ, Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân cư sĩ phụ nữ để thuyết pháp.” Đồng thời, trong Kinh Pháp Hoa, quyển bảy, phẩm Phổ Môn, có đoạn viết: “Hoặc khi trôi dạt giữa biển lớn, bị rồng, cá, hoặc các loài quỷ làm hại, nếu niệm sức oai lực của Quán Âm, sóng to gió lớn cũng không thể nhấn chìm.”

Ý nghĩa của Quán Âm A Nậu:

Ngài thường được mô tả trong tư thế ngồi ôm gối, ánh mắt chăm chú nhìn ra biển cả. Hình tượng này biểu trưng cho sự thấu suốt mọi khổ nạn của chúng sinh, thể hiện lòng từ bi cứu khổ cứu nạn không ngừng nghỉ của Ngài.

A Ma Đề Quán Âm – Hóa thân Quan Lại Phụ Nữ
A Ma Đề Quán Âm – Hóa thân Quan Lại Phụ Nữ 

21. A MA ĐỀ QUÁN ÂM – Hóa thân Quan Lại Phụ Nữ 

“A Ma Đề Quán Âm”, còn được gọi là “Vô Úy Quán Âm” hoặc “Khoan Quảng Quán Âm”. Tên đầy đủ “A Ma Đề” trong Phạn ngữ có nghĩa là “người hoàn toàn không sợ hãi” hoặc “người mang lại sự an tâm và bình tĩnh”. Vì Quán Âm có đức hạnh ban bố sự không sợ hãi, nên được gọi là “Vô Úy Quán Tự Tại Bồ Tát”.

Trong Phẩm Phổ Môn có đoạn: “Vị Bồ Tát Quán Thế Âm này, ở trong những cảnh khổ sợ hãi và tai nạn gấp bách, có thể ban bố sự không sợ hãi, vì thế, ở thế giới Ta Bà này, Ngài được gọi là Bậc Ban Bố Vô Úy.”

Ngoài ra, vì Ngài cưỡi sư tử, nên còn được gọi là “Sư Tử Vô Úy Quán Âm” hoặc “Sư Hống Quán Âm”.

Phật giáo giảng về lục đạo luân hồi, gồm địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a-tu-la, nhân và thiên. Vì thế, Quán Âm đã hóa hiện thành sáu vị Quán Âm, để tiện độ hóa chúng sinh trong mỗi cõi luân hồi, nên có khái niệm Lục Quán Âm.

Trong các tông phái Phật giáo, quan niệm về Lục Quán Âm có chút khác biệt. Theo giáo nghĩa Thiên Thai Tông, sáu vị Quán Âm gồm:

  1. Đại Bi Quán Âm,
  2. Đại Từ Quán Âm,
  3. Sư Tử Vô Úy Quán Âm,
  4. Đại Quang Phổ Chiếu Quán Âm,
  5. Thiên Nhân Trượng Phu Quán Âm,
  6. Đại Phạm Thâm Viễn Quán Âm.

Trong đó, Sư Tử Vô Úy Quán Âm chính là vị Quán Âm phá trừ tam chướng của cõi súc sinh. Vì sư tử được coi là chúa tể muôn loài, thể hiện sự oai nghi và uy mãnh, nên Ngài biểu hiện đức hạnh vô úy to lớn, trong khi vẫn giữ vẻ từ bi trang nghiêm của một vị Bồ Tát.

DIỆP Y QUÁN ÂM – Hóa thân Bà La Môn Phụ Nữ
DIỆP Y QUÁN ÂM – Hóa thân Bà La Môn Phụ Nữ

22.DIỆP Y QUÁN ÂM – Hóa thân Bà La Môn Phụ Nữ

“Diệp Y Quán Âm” đứng thứ 22 trong danh sách 33 vị Quán Âm. “Ứng Thân Tướng” của vị này là Diệp Y Quán Âm, còn “Hóa Thân Tướng” chính là sự hiện thân dưới dạng Đế Thích Thiên, nhưng cũng có quan điểm cho rằng Ngài xuất hiện dưới hình dáng một Bà-la-môn Phụ Nữ. Mật hiệu của Diệp Y Quán Âm là “Dị Hành Kim Cang”.

Hình tướng của Ngài được mô tả trong “Kinh Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát” là một Thiên Nữ, đội Bảo Quan (vương miện), trên Bảo Quan an trí hình tượng Phật Vô Lượng Thọ. Trên thân Ngài được trang trí các Anh LạcHoàn Xuyến quý báu. Từ xưa, Diệp Y Quán Âm đã được tôn thờ làm Bản Tôn để cầu tiêu trừ ôn dịch, bệnh dịch gia súc, nạn cướp bóc và sâu bệnh phá hoại mùa màng.

Pháp tu của Diệp Y Quán ÂmTâm Pháp thực hành để cầu nguyện sức khỏe dồi dào và trường thọ không bệnh tật.

Ý nghĩa biểu tượng của Diệp Y Quán Âm:

Ngài đại diện cho năng lực tiêu trừ ôn dịch, bệnh dịch gia súc, nạn cướp bóc và sâu bệnh mùa màng, tượng trưng cho sự trường thọ và không bệnh tật.

Lưu Ly Quán Âm – Hóa thân Đồng Nam
Lưu Ly Quán Âm – Hóa thân Đồng Nam

23. LƯU LY QUÁN ÂM – Hóa thân Đồng Nam

Lưu Ly Quán Âm” đứng thứ 23 trong danh sách 33 vị Quán Âm. “Ứng Thân Tướng” của Ngài là Lưu Ly Quán Âm, còn “Hóa Thân Tướng” chính là sự hiện thân dưới dạng Tự Tại Thiên Thân, tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng Ngài xuất hiện dưới hình dáng Đồng Nam Thân.

Ý nghĩa biểu tượng của Lưu Ly Quán Âm:

Hình tượng của Ngài là tay nâng bình Lưu Ly, chân đạp lên cánh sen, nổi trên mặt biển hoặc lơ lửng giữa không trung. Ngài tượng trưng cho tâm hồn thanh tịnh như lưu ly, và mọi sự đều như ý nguyện.

Đa La Tôn Quán Âm – Hóa thân Đồng Nữ.
Đa La Tôn Quán Âm – Hóa thân Đồng Nữ.

24. ĐA LA TÔN QUÁN ÂM – Hóa thân Đồng Nữ.

“Đa La Tôn Quán Âm” đứng thứ 24 trong danh sách 33 vị Quán Âm. “Ứng Thân Tướng” của Ngài là Đa La Quán Âm, còn “Hóa Thân Tướng” chính là sự hiện thân dưới hình dáng Đồng Nữ Thân. Có một cách lý giải cho rằng Ngài tượng trưng cho đoạn trong Phẩm Phổ Môn: “Hoặc gặp oán tặc bao vây, tay cầm dao muốn hại, chỉ cần niệm đến năng lực của Quán Âm, tất cả sẽ khởi tâm từ.”

Ý nghĩa biểu tượng của Đa La Quán Âm:

“Đa La” có nghĩa là mắt, vì thế Đa La Quán Âm cũng được gọi là Quán Âm Đa Nhãn. Ngài tượng trưng cho việc quan sát bốn phương, thấu tỏ mọi việc và không gì có thể qua mắt Ngài.

Cáp Lị Quán Âm – Hóa thân Trời
Cáp Lị Quán Âm – Hóa thân Trời 

25. CÁP LỊ QUÁN ÂM – Hóa thân Trời 

“Cáp Lị Quán Âm” (Hà Lợi Quán Âm) đứng thứ 25 trong danh sách 33 vị Quán Âm. “Ứng Thân Tướng” của Ngài là Cáp Lị Quán Âm, còn “Hóa Thân Tướng” có thuyết cho rằng Ngài hiện thân dưới hình dáng Thiên Thân, cũng có thuyết cho rằng Ngài hiện thân là Bồ Tát Thân. Tên gọi Cáp Lị Quán Âm xuất phát từ hình ảnh Ngài ngồi bên trong vỏ con nghêu, hoặc cưỡi trên nghêu, vì thế có tên gọi như vậy. Tín ngưỡng về Ngài khởi phát từ thời Nhà Đường và được truyền bá qua các câu chuyện dân gian, chứ không phải trong các kinh điển Phật giáo.

Ý nghĩa biểu tượng của Cáp Lị Quán Âm:

Thường thấy hình ảnh Quán Âm ngự trong hai vỏ nghêu mở ra, hoặc cưỡi trên nghêu vượt biển. Truyền thuyết này gắn liền với câu chuyện về Đường Văn Tông ăn nghêu. Ngài tượng trưng cho lòng từ bi vô hạn của Quán Âm Bồ Tát, luôn sẵn lòng cứu khổ và khuyến thiện, và Ngài luôn dành tình thương đối với chúng sinh.

26 Luc thoi quan am
Lục Thời Quán Âm – Hóa thân Rồng

26. LỤC THỜI QUÁN ÂM – Hóa thân Rồng

“Lục Thời Quán Âm” đứng thứ 26 trong danh sách 33 vị Quán Âm. “Ứng Thân Tướng” của Ngài là Lục Thời Quán Âm, còn “Hóa Thân Tướng” có thuyết cho rằng Ngài hiện thân dưới hình dáng Long Thân, cũng có thuyết cho rằng Ngài hiện thân dưới hình dáng Cư Sĩ Thân. Lục Thời Quán Âm còn được gọi là “Thường Thị Chúng Sinh Quán Âm”.

Ý nghĩa biểu tượng của Lục Thời Quán Âm:

Lục Thời Quán Âm tượng trưng cho “Lục Thời Thương Xót và Hộ Niệm Chúng Sinh”. Trong các kinh điển Phật giáo, “Lục Thời” có nghĩa là chia một ngày thành sáu thời điểm: ba thời điểm trong ban ngày (Sáng, Giữa Ngày, Chiều Tối) và ba thời điểm trong ban đêm (Đầu Đêm, Giữa Đêm, Cuối Đêm). Lục Thời Quán Âm luôn dõi theo chúng sinh suốt 24 giờ mỗi ngày, từ sáng đến tối, bảo vệ và thương xót chúng sinh.

Bên cạnh đó, trong Phật giáo cũng có cách phân chia Lục Thời theo mùa trong năm, từ tháng Giêng đến tháng Mười Hai, chia thành các giai đoạn sau:

  • Tháng Giêng đến tháng Ba: Thời gian ấm dần.
  • Tháng Ba đến tháng Năm: Thời gian nóng nhất.
  • Tháng Năm đến tháng Bảy: Mùa mưa.
  • Tháng Bảy đến tháng Chín: Thời gian sinh trưởng.
  • Tháng Chín đến tháng Mười Một: Thời gian se lạnh.
  • Tháng Mười Một đến tháng Giêng: Mùa lạnh nhất.

Về hình dáng của Lục Thời Quán Âm, thông thường là tượng đứng, tay phải cầm Phạm Khúc (Kinh Sách). Hình dáng này khá giống với hình ảnh của “Cầm Kinh Quán Âm”, tuy nhiên nếu không có chú thích rõ ràng là Lục Thời Quán Âm, thì người ta sẽ nhận biết đây là hình tượng Cầm Kinh Quán Âm nhiều hơn.

Phổ Bi Quán Âm – Hóa thân Dạ Xoa
Phổ Bi Quán Âm – Hóa thân Dạ Xoa

27. Phổ Bi Quán Âm – Hóa thân Dạ Xoa 

“Phổ Từ Quán Âm” (普慈觀音) đứng thứ 27 trong danh sách 33 vị Quán Âm. “Ứng Thân Tướng” của Ngài là Phổ Từ Quán Âm, còn “Hóa Thân Tướng” có thuyết cho rằng Ngài hiện thân dưới hình dáng Đại Tự Tại Thiên Thân, cũng có thuyết cho rằng Ngài hiện thân dưới hình dáng Dạ Xoa Thân. “Phổ Từ Quán Âm” còn được gọi là “Phổ Bi Quán Âm”.

Ý nghĩa biểu tượng của Phổ Từ Quán Âm:

Hình ảnh của Phổ Từ Quán Âm thường là Ngài cưỡi mây bay trên không, áo bay theo gió, thể hiện hình dáng Đại Tự Tại. Ngài đại diện cho sự bình đẳng và công bằng, luôn mang lại sự an lành và bình an cho mọi chúng sinh.

Trong Đại Trí Độ Luận, quyển 27 có nói: “Bồ Tát đại từ với tất cả chúng sinh, mang lại vui vẻ cho họ; đại bi cứu vớt tất cả chúng sinh khỏi khổ đau.” Quán Thế Âm Bồ Tát cứu độ chúng sinh, ban cho họ sự vui vẻ, là “Từ”; thương xót chúng sinh, cứu họ khỏi khổ đau, là “Bi”. Vì vậy, đây là nghĩa “Từ Bi” song hành, nền tảng của mọi con đường Phật giáo. Mỗi người trong chúng ta đều có những vết thương trong cuộc đời, và chính những vết thương ấy mở ra lòng Đại Bi, khiến phúc lành tuôn đổ cho người khác, đồng thời cũng lợi ích cho chính bản thân.

Quán Thế Âm Bồ Tát khi mới chuyển Pháp Luân đã tuyên thệ rằng sẽ cứu độ tất cả chúng sinh trong sáu đạo, theo “Phổ Môn” (Mở Cửa Phổ Bi) và nguyện độ tất cả chúng sinh, không phân biệt.

Về hình dáng của Phổ Từ Quán Âm, thường thấy Ngài đứng trên đỉnh núi hoặc trên một đồi cao, hai tay chắp trước bụng, tay trong tay áo, thể hiện sự khiêm nhường và bình an. Tuy nhiên, khi tham khảo tài liệu, tôi không tìm thấy thông tin cụ thể nào nói về việc Phổ Từ Quán Âm phải có hai tay chắp trước bụng và giấu trong áo, và cũng không có giải thích chi tiết về ý nghĩa của động tác này trong các tài liệu có sẵn.

MÃ LANG PHỤ QUÁN ÂM – Hóa thân Càn Thát Bà 
MÃ LANG PHỤ QUÁN ÂM – Hóa thân Càn Thát Bà 

28. MÃ LANG PHỤ QUÁN ÂM – Hóa thân Càn Thát Bà 

“Mã Lang Phụ Quán Âm” đứng thứ 28 trong danh sách 33 vị Quán Âm. “Ứng Thân Tướng” của Ngài là Mã Lang Phụ Quán Âm, còn “Hóa Thân Tướng” có thuyết cho rằng Ngài hiện thân dưới hình dáng Khẩn Đạt Bà Thân hoặc Phụ Nữ Thân. Theo tên gọi, tôi cho rằng Phụ Nữ Thân có vẻ phù hợp hơn với ngữ cảnh.

Mã Lang Phụ Quán Âm là Quán Âm hóa thân thành một người phụ nữ, kết hôn với một người đàn ông họ Mã. Nói một cách đơn giản, Quán Âm hóa thân thành vợ của một người đàn ông tên Mã, và do đó được gọi là Mã Lang Phụ Quán Âm.

Trên thực tế, Mã Lang Phụ Quán ÂmNgư Lan Phụ Quán Âm (vị thứ 10 trong danh sách 33 Quán Âm) là hai hình thức khác nhau nhưng lại có mối quan hệ rất gần gũi.

Nếu ai đã từng nghe qua câu chuyện về Ngư Lan Phụ Quán Âm, sẽ hiểu nguồn gốc của Mã Lang Phụ Quán Âm.

Câu chuyện đơn giản như sau: Quán Âm vì muốn cứu độ chúng sinh, đã hóa thân thành một phụ nữ bán cá (Ngư Lan Phụ). Sau đó, bà được một người đàn ông họ Mã cưới làm vợ. Tuy nhiên, vào đêm tân hôn, người phụ nữ qua đời đột ngột. Mã Lang, vì quá thương nhớ vợ, đã khắc tượng nàng thành một pho tượng vàng để lưu giữ, từ đó có hình ảnh Mã Lang Phụ Quán Âm.

Ý nghĩa của Mã Lang Phụ Quán Âm: Quán Âm hóa thân thành người phụ nữ đẹp, khuyến khích mọi người tụng niệm kinh Phật và giáo hóa chúng sinh. Giống như Ngư Lan Phụ Quán Âm, Mã Lang Phụ Quán Âm tượng trưng cho niềm tin và sự kiên định.

Trong 33 vị Quán Âm, hai vị này thường xuất hiện cùng nhau. Mối quan hệ của họ là, Ngư Lan Phụ Quán Âm xuất hiện trước, và nếu không có sự xuất hiện của Ngư Lan Phụ, thì Mã Lang Phụ cũng không thể xuất hiện. Điều này có thể hiểu là Ngư Lan Phụ Quán Âmnhân, còn Mã Lang Phụ Quán Âmquả. Vì vậy, không có nhân thì không có quả.

HỢP CHƯỞNG QUÁN ÂM – Hóa thân A Tu La
HỢP CHƯỞNG QUÁN ÂM – Hóa thân A Tu La

29. HỢP CHƯỞNG QUÁN ÂM – Hóa thân A Tu La

“Hợp Chưởng Quán Âm” đứng thứ 29 trong danh sách 33 vị Quán Âm. “Ứng Thân Tướng” của Ngài là Hợp Chưởng Quán Âm, và “Hóa Thân Tướng” có thuyết cho rằng Ngài có thể hiện thân dưới dạng A Tu La Thân hoặc Bà La Môn Thân.

Ý nghĩa của Hợp Chưởng Quán Âm:

Quán Âm trong tư thế hai tay hợp chưởng và đứng trên đài sen, thể hiện sự hoan hỷ trong việc hóa giải khổ đau của chúng sinh, cũng như nguyện cầu cho tất cả chúng sinh được thoát khỏi khổ đau và đạt được hạnh phúc.

Hình ảnh Hợp Chưởng Quán Âm là biểu tượng cho lòng từ bi và sự cầu nguyện của Quán Âm đối với chúng sinh. Tư thế hợp chưởng là một hành động thể hiện sự tôn kính, thanh tịnh, và cũng là cách mà Ngài thể hiện lòng từ bi đối với mọi người, cầu mong cho chúng sinh thoát khỏi mọi khổ nạn.

Nhất Như Quán Âm
Nhất Như Quán Âm

30. NHẤT NHƯ QUÁN ÂM – Hóa thân Ca Lâu La.

“Nhất Như Quán Âm” đứng thứ 30 trong danh sách 33 vị Quán Âm. “Ứng Thân Tướng” của Ngài là Nhất Như Quán Âm, và “Hóa Thân Tướng” có thuyết cho rằng Ngài có thể hiện thân dưới dạng Già Lâu La Thân, một trong các hộ pháp thiên long bát bộ, là Đại Bằng Kim Chỉ Điểu.

Ý nghĩa của Nhất Như Quán Âm:

Ngài xuất hiện trong hình ảnh ngồi trên mây, bay giữa không trung, có khả năng chế ngự sấm sét và các quấy rối của ma quái. Trong Pháp Hoa Kinh, Phổ Môn Phẩm, có viết: “Mây mưa đổ xuống, sấm chớp đánh vang, nhưng khi nghĩ đến sức mạnh của Quán Âm, tất cả đều lập tức tan biến.”

“Nhất Như” là lý thuyết về sự không hai, không khác, là một trong những đặc điểm của Phật pháp, do đó Quán Âm còn được gọi là Chân Như Quán Âm. Hình ảnh của Ngài thường thấy là bay trên mây, tay phải bắt ấn thuyết pháp, với sấm sétlôi điện theo sau, tượng trưng cho việc Ngài có thể chế ngự mọi sự quấy phá, thiên tai và đem lại hòa bình và tĩnh lặng cho chúng sinh.

Nhất Như Quán Âm tượng trưng cho Chân Như lý, bình đẳng với tất cả chúng sinh, một biểu tượng của sự từ bi vô biên và khả năng chế ngự mọi trở ngại trong cuộc sống.

Bất Nhị Quán Âm
Bất Nhị Quán Âm

31.BẤT NHỊ QUÁN ÂM – Hóa thân Khẩn Na La 

“Bất Nhị Quán Âm” đứng thứ 31 trong danh sách 33 vị Quán Âm. “Ứng Thân Tướng” của Ngài là Bất Nhị Quán Âm, và “Hóa Thân Tướng” có thuyết cho rằng Ngài có thể hiện thân dưới dạng Thủ Kim Cương Thần Thân hoặc là Cận Na La Thân, một trong những vị thần hộ pháp của Phật giáo.

Ý nghĩa của Bất Nhị Quán Âm:

Ngài thường được hình dung với hai tay bắt ấn giao nhau hoặc tay thả xuống, đứng hoặc ngồi trên lá sen giữa mặt nước, hoặc ngồi trên tòa sen. Điều này biểu tượng cho bốn mươi tám ngàn pháp môn, trong đó pháp môn niệm Phật là chân thật và không phân biệt.

“Bất Nhị” là lý thuyết về sự không phân biệt, không có hai (không có phân chia giữa phải và trái, tốt và xấu), là nền tảng của Phật pháp vô biên. Quán Âm với hình ảnh này tượng trưng cho sự hòa hợp, không có sự phân biệt trong tất cả các pháp môn, cũng như sự bảo vệ chúng sinh khỏi tai nạn, giải trừ khổ đau và mang đến phúc thọ vô lượng.

Bất Nhị Quán Âm cũng mang thông điệp của sự từ bi và trí tuệ, giúp chúng sinh vượt qua mọi khổ đau và tìm thấy con đường giải thoát, vô lượng an vui.

Trì liên Quán Âm
Trì liên Quán Âm

32 .TRÌ LIÊN QUÁN ÂM – Hóa thân Ma Hầu La Già 

“Trì Liên Quán Âm” đứng thứ 32 trong danh sách 33 vị Quán Âm. “Ứng Thân Tướng” của Ngài là Trì Liên Quán Âm, và “Hóa Thân Tướng” có thuyết cho rằng Ngài có thể hiện thân dưới dạng Thanh Niên Thanh Nữ Thân hoặc là Ma Hầu La Già Thân tức là thân hình của một con rắn lớn thần thánh.

Ý nghĩa của Trì Liên Quán Âm:

Ngài được hình dung cầm một đóa sen trong tay, một hình ảnh rất đặc trưng. Hoa sen trong Phật giáo thường được dùng để biểu thị sự thoát khỏi bùn lầy mà không bị ô uế, tương tự như cách mà Bồ Tát hoặc Phật pháp được biểu thị: dù sống trong thế giới đầy những phiền não và đau khổ, nhưng vẫn giữ được sự thuần khiết và trong sáng.

Sen là biểu tượng cho sự thanh tịnh, sự giác ngộ, và từ bi của Quán Âm. Ngài luôn truyền bá Phật pháp và giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đưa con người đến gần hơn với sự giải thoát. Hình ảnh Trì Liên Quán Âm còn tượng trưng cho việc duy trì lòng từ bi và thanh tịnh trong cuộc sống, dù chúng ta phải đối mặt với vô vàn thử thách và chướng ngại.

Sái Thủy Quán Âm
Sái Thủy Quán Âm

33 .SÁI THỦY QUÁN ÂM – Hóa thân Chấp Kim Cang Thần

“Sái Thủy Quán Âm” hay “Tỏa Thủy Quán Âm” là vị Quán Âm đứng cuối cùng trong danh sách 33 vị Quán Âm, tức là vị thứ 33. “Ứng Thân Tướng” của Ngài là Tỏa Thủy Quán Âm, và “Hóa Thân Tướng” có thuyết cho rằng Ngài có thể hiện thân dưới dạng Thân Kim Cang

Đặc điểm pháp tướng của Tỏa Thủy Quán Âmtay trái cầm bình tịnh, tay phải cầm cành liễu, đứng trên mặt đất hoặc mây trời, rưới nước từ bình tịnh xuống. Cảnh tượng này phản ánh một hành động của Bồ Tát khi Ngài tưới nước từ bi xuống chúng sinh, với lòng từ bi vô hạn, giúp họ giải trừ khổ đau, tẩy rửa nghiệp chướngđem lại sự thanh tịnh.

Ý nghĩa của Tỏa Thủy Quán Âm:

Hình ảnh tay trái cầm bình tịnh để rưới nước thanh tịnh, tay phải cầm cành liễu hoặc làm pháp ấn, tượng trưng cho hành động giải thoátgiúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau. Nước trong Phật giáo thường được dùng để chỉ sự từ bi, giống như mưa pháp có thể tẩy rửa nghiệp chướnglàm sạch tâm hồn.

Ngài còn biểu thị lòng từ bi cứu độmong muốn giải quyết những vấn đề lớn lao như hạn hán, thiên tai, mang đến cho chúng sinh sự phát triển và bình an trong cuộc sống. Tỏa Thủy Quán Âm cũng như một lời nguyện từ bi, cầu cho tất cả chúng sinh thoát khỏi phiền nãođược đón nhận sự mưa pháp từ bi.

0/5 (0 Reviews)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *